PHAN BỘI CHÂU CHU DỊCH HẠ KINH 3
51. QUẺ BÁT THUẦN CHẤN
Chấn trên; Chấn dưới
Quẻ này là quẻ Bát Thuần Chấn. Chấn hạ cũng là Nội Chấn, Chấn thượng cũng là Ngoại Chấn. Trên dưới trong ngoài thảy là Chấn, nên tên quẻ đọc bằng Bát Thuần Chấn.
TỰ QUÁI
Tự quái: Chủ khí giả mạc nhược trưởng tử, cố thụ chi dĩ Chấn.
序卦: 主器者, 莫若長子, 故受之以震.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Đỉnh tiếp lấy quẻ Chấn là vì cớ sao?
Trên đây là quẻ Đỉnh, Đỉnh là một giống trọng khí làm chủ giữ trọng khí không ai bằng con trai trưởng. Con trai trưởng tức là Chấn. Vậy nên sau quẻ Đỉnh tiếp lấy quẻ Chấn.
Quẻ Chấn là quẻ nhất dương ở dưới nhị âm, tượng Chấn là sấm, nghĩa Chấn là động, một hào Sơ quẻ Càn gia hoán với Khôn, thay hào Sơ quẻ Khôn mà thành Chấn, nên gọi Chấn bằng trưởng nam.
SOÁN TỪ
Chấn hanh. Chấn lai khích khích, tiếu ngôn hách hách. Chấn kinh bách lí, bất táng chủy sưởng.
震亨, 震來虢虢, 笑言啞啞, 震驚百里, 不喪匕鬯.
Theo về thể quẻ, nhất dương bắt đầu sinh ở dưới mà tiến lên lần lần, lại tượng là sấm, sấm phát động mà vạn vật nảy nở, có nghĩa là được hanh thông. Vậy nên nói rằng: Chấn hanh.
Chấn lại có nghĩa là kinh động, thoạt có việc gì mà kinh động tới nơi. Người ta gặp phải sự tình như thế thời nên cẩn thận kỹ càng, đón trước ngó sau, tỏ rõ ra tinh thần khích khích (Khích khích, nớp nớp, có ý là không dám an lặng).
Chấn lai mà biết khích khích, như thế, tất không đến nỗi có tai hại gì mà được cười nói êm ái luôn luôn, ấy là tiếu ngôn hách hách (Hách hách nghĩa là dáng êm hòa).
Người ta sở dĩ thất thường mà đến nỗi có tai bay vạ bốc là chỉ vì trước lúc Chấn lai mà không biết lo sợ nên sau lúc Chấn lai mà mắc lấy tai ương.
Nếu biết nghĩa Chấn lai khích khích thời đã lo sẵn ở lúc trước, tất rước được phúc ở lúc sau nên Quái từ nói rằng: Tiếu ngôn hách hách.
Bây giờ lại thủ tượng Chấn lai mà nói cho hết đạo ở thì Chấn. Tỉ như tiếng sấm vang động, kinh chuyển đến trăm dặm đất, nhưng mà tinh thần vẫn trấn tĩnh vững vàng, không đến nỗi kinh động mà mất đồ tế khí, thế là bất táng chủy sưởng (Chủy nghĩa là đũa muỗng là đồ để tiến soạn; sưởng là rượu nghệ, dùng để tế thần).
Không làm mất chủy sưởng là có ý làm tế chủ mà được vững vàng.
Hai câu ấy là hình dung người lâm biến mà in như thường.
Hễ người ta tinh thần không được vững vàng, thường thột nghe sấm đánh mà thốt nhốt kinh sợ. Bày giờ Chấn kinh bách lí mà bất táng chủy sương, thế là tinh thần trấn tĩnh rất mực. Xử vào thì Chấn mà được như thế mới là Chấn hanh.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Chấn hanh. Chấn lai khích khích, khủng trí phúc dã, tiếu ngôn hách hách, hậu hữu tắc dã. Chấn kinh bách lí, kinh viễn nhi cụ nhĩ dã. Xuất khả dĩ thủ tôn miếu xã tắc, dĩ vi tế chủ dã.
彖曰: 震亨, 震來虢虢, 恐致福也, 笑言啞啞, 後有則也. 震驚百里, 驚遠而懼邇也. 出可以守 宗廟社稷,
以為祭主也.
Soán viết: Chấn hanh. Chấn lai khích khích, khủng trí phúc dã.
Lời Đức Khổng ở đây, lại phát minh cho rộng nghĩa của Quái từ mà nói rằng: sở dĩ Chấn lai mà phải khích khích là muốn cho người ta khủng cụ tự tu, thời sẽ rước được phúc đến cho mình. (Khích khích là tạo nhân; trí phúc là kết quả).
Tiếu ngôn hách hách, hậu hữu tắc dã.
Xử thì Chấn mà đúng được phép tắc như thế thời không bao giờ đến nỗi thất thường, chỉ thấy tiếu ngôn hách hách mà thôi. Bởi vì sau lúc Chấn lai, nhưng vẫn có phép tắc như thường, chẳng vì Chấn lai mà lay chuyển được.
Chấn kinh bách lí, kinh viễn nhi cụ nhĩ dã. Xuất khả dĩ thủ tôn miếu xã tắc, dĩ vi tế chủ dã.
Tiếng sấm vang đến trăm dặm là uy trời kinh đến chốn xa mà làm sợ cho chốn gần (Chữ kinh, chữ cụ thảy là động từ; kinh có ý vang thột; cụ có ý tổn hại). Câu này chỉ hình dung uy của sấm. Tuy động uy trời lớn dữ như thế mà vẫn tinh thần vững vàng. Hạng người được như thế tất nhiên làm được công việc lớn. Đụng gặp lúc biến cố mà vua trong nước phải tránh ra ngoài, đem người ấy giữ tôn miếu xã tắc làm một vị tế chủ cũng là xứng đáng mà không phải lo đổ bể.
Toàn văn của Soán Truyện đây chú trọng nhất là ba chữ: khủng, trí phúc; tòng lai, họa thường nảy ở giữa lúc mình quên, phúc thường sinh ở lúc mình sợ, khi Chấn chưa lại mà đã khủng cụ, tất nhiên khi Chấn lại mà vẫn thường tiếu ngôn.
Người ta nêu cứ giữ một tấm lòng kính úy luôn luôn, bao nhiêu hoàn cảnh đáng sợ đáng kinh chỉ là một vị thần mở cửa đưa phúc vào cho mình.
Nước Nhật Bản có ông Mục Liên Thái Tử, ngày thường đoan tọa niệm Phật, thoạt có lũ cướp toan ác trêu ông, muốn cho ông mất thái dộ nghiêm kính, đương lúc ban đêm, ông còn ngồi niệm Phật, lũ cướp hơn mườì đứa, thoạt vào quát mắng om sòm, ông ngồi yên không động, không thèm ngó cổ lại, chúng lấy gươm cứa cổ ông, ông cứ niệm kinh như thường; kẻ cướp kinh sợ ông, bỏ gươm xuống lạy ông, tưởng ông là vị Phật sống. Ông nhân đó khai hóa được mười người, thảy quy y Phật môn. Nhật Bản bây giờ xưng ông là Mục Liên Thánh, xem như việc ấy thời Soán từ càng rõ lắm.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Tấn lôi, Chấn, quân tử dĩ khủng cụ tu tỉnh.
象曰: 洊雷, 震, 君子以恐懼修省.
Chấn, nguyên tượng là sấm, trên dưới hai lần Chấn tượng là sấm dồn là tượng quẻ Chấn. Quân tử xem tượng ấy mà trong lòng cũng thường có một cách tấn lôi, khi bình thường vô sự mà cứ lo sợ luôn luôn, dầu có gặp những biến cố gì thời càng lo xét sửa trong mình.
Tấn lôi, Chấn là Chấn thuộc về phần trời; khủng cụ tu tỉnh là Chấn thuộc về phần người. Khủng cụ là thuộc về tinh thần; tu tỉnh là thuộc về phần sự thực.
Tỉnh là xét, thầy Tăng thường ngày có ba việc xét trong mình ngô nhật tam tỉnh ngô thân 吾日三 省吾身, chính là chữ tu tỉnh ở đây.
1. Sơ Cửu: Chấn lai khích khích, hậu tiếu ngôn hách hách, cát.
初九: 震來虢虢, 後笑言啞啞, 吉.
Quẻ này nguyên ba nét thuần âm là quẻ Khôn, vì có Sơ Cửu thay vào mà thành được Chấn nên Sơ Cửu là chủ ở thì Chấn, vả lại ở dưới hết quẻ là bắt đầu vào thì Chấn, Hào từ mới bảo cho rằng: Nếu biết được Chấn đã tới mà kính cẩn lo sợ thời sau mới được cười nói như thường. Như thế thời cát.
Nghĩa hào này đã thích tường ở Quái từ, đây chỉ thêm một chữ "hậu” với một chữ "cát", lược thích qua là được rồi.
Tượng viết: Chấn lai khích khích, khủng trí phúc dã, tiếu ngôn hách hách, hậu hữu tắc dã.
彖曰:震來虢虢, 恐致福也, 笑言啞啞, 後有則也.
Nghĩa Tượng Truyện đây đã thích trên Soán Truyện.
2. Lục Nhị: Chấn lai, lệ, ức táng bối, tê vu cửu lăng, vật trục, thất nhật đắc.
六二: 震來, 厲, 憶喪貝, 躋于九陵, 勿逐, 七日得.
Lục Nhị cư trung đắc chính, vẫn là một người khéo xử ở thì Chấn, nhưng vì bản chất là âm mà địa vị Cửu Nhị lại cưỡi ở trên Sơ Cửu. Sơ vì dương cương muốn lăng bức Nhị nên Nhị gặp lấy việc chấn động thột nhiên tới nơi, e có cơ nguy lắm, đạc chừng e lại mất của chăng (Ức nghĩa là đạc chừng; táng nghĩa là mất; bối nghĩa là của thường dùng).
Nói rằng ức nghĩa là chỉ nói đạc chừng mà chưa phải sự thiệt, vì lo sợ quá nên phải liệu thế mà tránh xa, e lên đến chín tầng gò cao kia.
(Tê nghĩa là lên; cửu lăng, chín lớp gò). Lên đến chốn rất cao là liệu thế mà tránh Chấn đó.
Tuy nhiên, Nhị với Sơ hướng lai vẫn không thù oán gì, chẳng qua Nhị thấy Sơ khí hăng thế mạnh mà quá lo như thế.
Nhị vẫn nhu thuận trung chính, chắc sức tự thủ còn dư. Sơ chẳng làm hại gì đến Nhị nên Hào từ lại răn cho rằng: Dầu có mất của mặc lòng, nhưng không cần phải đuổi theo, chờ đến bảy ngày thời lại được. Vật trục, lại có ý cứ để tự nhiên. Thất nhật đắc là cuối cùng cũng không can hại gì, chữ đắc là phản đối với chữ táng. Táng đã mất, đã không táng tức là đắc. Táng bối, tê vu cửu lăng là hình dung tinh thần Lục Nhị khiếp sợ. Vật trục, thất nhật đắc là bảo cho Nhị nên trấn tĩnh êm đềm.
Tượng viết: Chấn lai, lệ, thừa cương dã.
象曰: 震來厲, 乘剛也.
Chấn lai mà sợ có nguy vì cưỡi lấy dương cương là hào Sơ vậy.
3. Lục Tam: Chấn tô tô, chấn hành vô sảnh.
六三: 震蘇蘇, 震行无眚.
Lục Tam âm ở vị dương, vẫn là hạng người bất chính, bất chính mà ở vào thì Chấn nên Chấn bằng một cách tô tô (Tô tô: sợ hãi mà rụng rồi, ngẩn ngơ).
Vì Tam là bất chính nên tình trạng như thế, nếu không dời đổi e đến nỗi có tai, nên Hào từ lại răn cho rằng: Tam nên biết, nhân lúc chấn cụ mà đi tránh xa thời tránh chốn bất chính mà đổi sang chính, tất nhiên không tai họa gì.
Tượng viết: Chấn tô tô, vị bất đáng dã.
象曰: 震蘇蘇, 位不當也.
Lục Tam sở dĩ Chấn tô tô là vì địa vị Tam mà hào âm ở vào là không đáng vị ấy,
4. Cửu Tứ: Chấn, tụy nê.
六四: 震遂泥.
Hào Cửu ở vị Tứ là dương cư âm vị, bất trung, bất chính, ở vào thì Chấn động mà đức tính của Tứ đã xấu như thế, lại sụp vào chính giữa bốn hào âm nên nỗi say mê chìm đắm, ngộ lấy những việc chấn cụ lại càng không tự thoát được, chỉ là trót trầm nịch mà thôi. (Nê là chìm đắm; tụy là có ý như trót gặp Chấn mà chìm đắm không thể quay chữa được nên nói rằng tụy nê).
Tượng viết: Chấn tụy nê, vị quang dã.
象曰: 震遂泥, 未光也.
Dương cương vẫn có tính sáng, nhưng vì Cửu Tứ bất trung bất chính mà hãm vào giữa bốn hào âm làm mất tính sáng của dương cương nên đến nỗi tụy nê, không lấy gì làm sáng được vậy.
5. Lục Ngũ: Chấn vãng lai, lệ, ức vô táng, hữu sự.
六五: 震往來, 厲, 億無喪有.
Hào Lục ở vị Ngũ là ở địa vị trung, vẫn có đức trung sẵn, nhưng ở vào thì Chấn nên thường có việc kinh cụ, Chấn vãng thấy nguy mà Chấn lai cũng thấy nguy.
Lục Ngũ ở lúc bấy giờ, chỉ vững vào mình có đức trung, tính toan lo lường cho khỏi mất đức trung.
Đức trung đã giữ được chặt thời Chấn vãng lai, lệ mặc dầu mà không có ngại gì, lại có thể làm được việc nữa kia. Chữ vô táng là khuyên cho Lục Ngũ giữ lấy đức trung, chữ hữu sự là mừng cho Lục Ngũ làm được nổi công việc.
Tượng viết: Chấn vãng lai, lệ, nguy hành dã; kì sự tại trung, đại vô táng dã.
象曰: 震來, 厲, 危行也; 其事在中, 大無喪也.
Ở vào thì Chấn mà đến nỗi vãng lai, lệ, thiệt là đi đâu cũng thấy nguy. Nhưng vì Ngũ hay cố thủ lấy đức trung thời là vô táng mà lại hữu sự, sở dĩ có công việc cũng nhờ có đức trung mà thôi nên nói rằng: Kì sự tại trung, đại vô táng dã.
6. Thượng Lục: Chấn tấc tấc, thị quặc quặc, chinh, hung. Chấn bất vu kì cung, vu kì lân, vô cựu, hôn cấu hữu ngôn.
上六: 震索索, 視矍矍, 征凶, 震不于其躬, 于其鄰, 無咎, 婚媾有言.
Thượng Lục ở cuối cùng thì Chấn là Chấn động có thể cực rồi. Vì vậy là chí ý có tượng mỏi mệt là Chấn tấc tấc (Tấc tấc: mỏi mệt). Trông nom có ý bằng hoàng là thị quặc quặc (Quặc quặc: kinh ngạc).
Người ở lúc bây giờ, chỉ nên yên lặng. Nếu động tác thời mắc lấy hung, nhưng vì Thượng Lục âm nhu, Hào từ khuyên cho rằng: Bản chất như Thượng Lục âm nhu mà lại gặp phải hoàn cảnh chấn cực. Nếu chỉ chẳng hành động cũng chưa chắc đã khỏi tội lỗi; tất phải có trí khôn, mưu sâu tính xa, lo trước ở lúc Chấn chưa đến giữa bản thân, mới đến cạnh láng giềng mà ta đã phòng xa đón trước, thấy Chấn ở láng giềng mà tránh được những việc lầm lỗi giữa bản thân.
Tuy nhiên, thường tình người ta thường thấy gần mà không xét được xa thường biết được dĩ vãng mà không đón đến tương lai.
Thượng Lục tiếu tâm viễn lự được như thế vẫn là hay, nhưng những hạng bà con với Thượng Lục e lại có kẻ chê cười Thượng Lục là người nhát gan là người độc hiện.
Tượng viết: Chấn tấc tấc, trung vị đắc dã, tuy hung, vô cựu, úy lân giới dã.
象曰: 震索索, 中未得也, 雖凶, 无咎, 畏鄰戒也.
Thượng Lục sở dĩ chấn tấc tấc là vì chưa được đạo trung vậy, tuy chính thời hung, nhưng còn mong cho vô cựu là vì thấy nguy tới láng giềng mà mình đã biết phòng bị trước thời cũng tránh khỏi tai sảnh bằng Chấn cực đó vậy.
PHỤ CHÚ: Sáu hào quẻ Chấn, không một hào nào không có chữ Chấn. Ý thánh nhân muốn bảo cho người ta, hễ đã đem thân vào đời thời không một người nào mà không trong hoàn cảnh nguy cực, nên trong sáu hào thảy có chữ Chấn.
52. QUẺ BÁT THUẦN CẤN
Cấn trên; Cấn dưới
Quẻ này là quẻ Bát Thuần Cấn. Cấn hạ cũng là Nội Cấn, Cấn thượng cũng là Ngoại Cấn. Trên dưới trong ngoài thảy là Cấn, nên tên quẻ đọc bằng Bát Thuần Cân.
TỰ QUÁI
Tự quái: Chấn giả động dã, vật bất khả dĩ chung động, chỉ chi, cố thụ chi dĩ Cấn. Cấn giả chỉ dã.
序卦: 震者動也, 物不可以終動, 故受之以艮, 艮者止也.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Chấn tiếp lấy quẻ Cấn là vì cớ sao?
Trên đây là quẻ Chấn, Chấn nghĩa là động, vật lí không lẽ cứ động hoài, động đã cực tất nhiên phải chỉ.Vậy nên sau quẻ Chấn tiếp lấy quẻ Cấn. Cấn nghĩa là chỉ.
Lại Cấn có tượng là núi, núi là giống chỉ đứng yên một chốn, lặng mà chỉ, thành ra nghĩa Cấn. Nguyên quẻ gốc là quẻ Khôn, vì nét thứ ba gốc ở quẻ Càn, đổi vào cho Khôn, nét âm thứ ba biến mà làm ra dương, thành ra quẻ Cấn, một nét dương ở trên hai nét âm, dương tiến đến cùng thời phải chỉ, hai âm ở dưới vẫn cứ lặng, thế là trên chỉ mà dưới lặng nên đặt tên quẻ bằng Cấn.
SOÁN TỪ
Cấn kì bối, bất hoạch kì thân, hành kì đình, bất kiến kì nhân, vô cựu.
艮其背, 不獲其身, 行其庭, 不見其人, 无咎.
Quái từ đây hoàn toàn thuộc về triết lí, bây giờ hãy chi theo mặt chữ mà thích nghĩa đen thời như thế này:
Cấn nghĩa là chỉ; chỉ ở phía lưng, không thấy được thân mình, đi ở trước mặt sân, không thấy có người ta. Như thế thời vô cựu. Thích nghĩa den như vậy, thiệt không thấy gì hay.
Chúng ta muốn hiểu cho ra ý Quái từ, trước hãy nhận cho ra nghĩa chữ bối. Bối vẫn là lưng, nhưng vì sao lại nói chỉ ở nơi lưng? (Chữ chỉ đây nên học như chữ chỉ ở câu chỉ ư chí thiện 止於 至善 ở sách Đại Học. Chí thiện nghĩa là rất lành kia).
Bởi vì tâm chí của người ta, hễ tĩnh thời không có ác cơ mà động thời có ác cơ. Tức như, toàn thể không thân mình, tai mắt miệng mũi tay chân rặt là giống hay động. Động vì tình dục mà sinh ra làm ác là chỉ vì các giống hữu cơ thể, duy cái lưng thường có tính tĩnh luôn. Vì nó tĩnh luôn nên không động cơ làm ác, nó đã không làm ác, tức là chí thiện. Bây giờ lấy cái lưng mà hình dung lẽ rất lành, ấy là cấn kì bối.
Ý tứ ba chữ cấn kì bối đã minh bạch như thế, mới có thể giảng xuống ba câu dưới được.
Người ta sở dĩ sinh ra lòng tư dục mà nảy nở ra vô số ác cơ chỉ vì trong óc nghĩ với trong mắt thấy chia hẳn ra giới hạn ta với người; vì giới hạn ta với người mới đẻ ra lòng tự tư tự lợi, đã sinh lòng tự tư tự lợi thời làm sao mà được chỉ ở chí thiện nữa rư?
Duy bậc thánh nhân quân tử, trong óc và trong con mắt chỉ thấy có đạo rất lành mà thôi, trong quên được mình mà không thấy mình ở đâu, như thế là bất hoạch kì thân. Ở trong đã quên được mình mà ở ngoài cũng quên cả người mà không thấy người ở đâu, ấy là hành kì đình, bất kiến kì nhân.
Đã nói rằng: Bất hoạch kì thân, thế là ngã không thấy là ngã mà còn tự tư tự lợi vào đâu. Đã nói rằng: Bất kiến kì nhân, thế là nhân không thấy là nhân mà còn cầu danh dự mua cảm tình vào đâu, có như thế, mới là vật ngã lưỡng vong, chỉ có nhất khối thiên lí nên "chỉ ư chí thiện" được.
Nói tóm lại, Quái từ chú trọng nhất chỉ là câu cấn kì bối. Mà sở dĩ cấn kì bối được, tất trước phải có tinh thần như hai câu ở dưới.
Bất hoạch kì thân là một câu bảo cho mình quên được mình; hành kí đình, bất kiến kì nhân là câu bảo cho mình quên cả người.
Bảo ràng "quên", há phải là tuyệt đối quên cả mình, quên cả người đâu, chỉ là thấy lẽ phải thời làm mà tuyệt nhiên không giới hạn mình với người. Nói tát lại, bốn chữ "vong ngã vong nhân" là vừa hết ý nghĩa.
PHỤ CHÚ: Ba chữ "Hành kì đình" không quan trọng gì, vì đối với chữ "kì thân" thời thân là nội mà nhân là ngoại, muốn thay chữ ngoại mà phải dùng chữ đình. Đình là chốn trước sân là chốn rất gần, người ở chốn rất gần mà còn không thấy, huống gì năm châu bốn bể mà còn thấy người là người rư?
Triết học ở Đông phương rất cao là Phật học, kinh Kim Cang có câu: Vô ngã tướng, vô nhân tướng 无我相 , 无人相. Chữ "tướng" ở kinh Phật, tức là chữ "hoạch", chữ "kiến" ở Kinh Dịch.
Vì phân biệt ra hình sắc ngã nên hoạch kì thân, bây giờ vô ngã tướng, tức là bất hoạch kì thân. Vì phân biệt ra hình sắc nhân nên kiến kì nhân, bây giờ vô nhân tướng, tức là bất kiến kì nhân.
Văn tự tuy có khác nhau chút đỉnh, nhưng nghiên cứu cho đến ý nghĩa thời Phật, Dịch chỉ là nhất lí.
Tây phương tông giáo như ông Jésus có câu ái nhân như kỉ 愛人如愛己, nhưng còn chia giới hạn Nhân với Kỉ mà phải dùng đến chữ Như. Thế là là còn thua Phật với Dịch xa lắm.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Cấn, chỉ dã. Thì chỉ tắc chỉ, thì hành tắc hành, động tĩnh bất thất kì thì, kì đạo quang minh. Cấn kì chỉ, chỉ kì sở dã. Thượng hạ địch ứng, bất tương dữ dã. Thị dĩ bất hoạch kì thân, hành kì đình, bất kiến kì nhân, vô cựu dã.
彖曰: 艮止也. 時止則止, 時行則行, 動静不失其時, 其道光明. 艮其止, 止其所也. 上下敵應, 不相與也.
是以不獲其身, 行其庭不見其人, 無咎也.
Soán viết: Cấn, chỉ dã. Thì chỉ tác chỉ, thì hành tắc hành, động tĩnh bất thất kì thì, kì đạo quang minh. Đây là thích tên quẻ, nhưng lại phát minh ra nghĩa ngoài tên quẻ. Tên quẻ thời chỉ có Cấn là chỉ mà thôi, nhưng Soán Truyện lại thêm ý vào.
Chỉ tất phải có hành, nhưng cốt cho đúng với thì: Thì nên an lặng thì an lặng, thì nên hành động thời hành động. Hành, chỉ, động, tĩnh tuy có khác nhau, nhưng tất thảy, đúng với thì mà không trái với thì nghĩa. Như thế thời đạo Cấn mới quang minh được.
PHỤ CHÚ: Thì chỉ mà chỉ, vẫn là chỉ; thì hành mà hành cũng là chỉ. Bởi vì hợp với thì nghĩa, tức là rất lành mà lại chỉ ở chí thiện.
Chữ chỉ nguyên có hai nghĩa: Một nghĩa chỉ là an lặng là nghĩa hẹp; một nghĩa chỉ là chỉ vừa đúng chốn là chữ chỉ nghĩa rộng. Hành mà vừa đúng chốn chỉ cũng gọi bằng chỉ.
Cấn kì chỉ, chỉ kì sở dã.
Chữ "Chỉ kì sở" đây là thích nghĩa chữ "cấn kì bối" ở trên Quái từ (Kì sở nghĩa là vừa đúng chốn).
Chỉ cho vừa đúng chốn là nghĩa chữ Cấn kì chỉ. Đạo lí trong thiên hạ, sự gì vật gì đúng được nguyên chốn của nó gọi bằng kì sở, tỉ như: Vi nhân quân mà chỉ ư nhân, nhân là kì sở; dữ quốc nhân giao mà chỉ ư tín, tín là kì sở.
Suy cho đến rất nhỏ, con chim mà thả nó lên rừng, rừng tức là kì sở; con cá mà thả nó xuống biển, biển tức là kì sở. Hễ giống gì việc gì tất có sở của giống ấy, việc ấy, ta cứ khiến cho nó vừa đúng kì sở thời cần gì có nhân ngã nội ngoại nữa đâu. Nên hạ văn lại thích luôn cho rõ nghĩa Quái từ.
Thượng hạ địch ứng, bất tương dữ dã. Thị dĩ bất hoạch kì thân, hành kì đình, bất kiến kì nhân, vô cựu dã.
Theo như thể quẻ, tuy vẫn có hai thể trên dưới, nhưng trên vẫn là Cấn mà dưới cũng là Cấn, trên dưới cân địch mà ứng với nhau, nhị thể in như nhất thể, không bỉ thử tương đối.
Vậy nên, trong thời không thấy mình khác người mà biết là mình, ngoài thời không thấy người khác mình mà biết là người. Trong ngoài quên cả hai bên, nhân ngã chỉ là nhất thể, nên nói rằng: Bất hoạch kì thân, hành kì đình, bất kiến kì nhân, vô cựu.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Kiêm sơn, Cấn. Quân tử dĩ ti bất xuất kì vị.
象曰: 兼山, 艮. 君子以思不出其位.
Trên Cấn là sơn, dưới Cấn cũng là sơn, gồm cả hai thể sơn, gọi bằng Cấn.
Cấn, tượng là chỉ, quân tử xem tượng ấy mà nghĩ một cách chỉ. Hễ những tư tưởng gì không ra khỏi vị nó.
Tỉ như, phận làm người thời lo làm sao cho đúng phận một con người mà chớ trật ra ngoài phận làm người. Như thế là tư bất xuất kì vị (Vị nghĩa là ngôi, cũng có nghĩa là phận; tư nghĩa là lo nghĩ, lo nghĩ cho vừa đúng bổn phận).
Năm chữ "tư bất xuất kì vị" giảng sơ qua thiệt rất tầm thường, giảng cho kĩ thời ý nghĩa rất cao xa. Tỉ như làm vua lo cho đúng bổn phận làm vua; làm tôi lo cho đúng bổn phận làm tôi; làm quốc dân lo cho đúng bổn phận làm quốc dân. Tư làm sao cho đúng kì vị, thế là vừa hết đạo làm người.
Xưa tiên hiền có câu: Việc trong vũ trụ, tất thảy là làm việc trong bổn phận người. Chữ phận nội tức là nghĩa chữ vị ở đây, người ta thường nhận lầm chữ vị bằng chức vị, tước vị thời lầm lỗi quá lớn. Vì chốn lầm lỗi đó mà bỏ hết bổn phận làm người, chỉ bo bo ở nơi tước vị, chức vị mà thôi.
Ôi! Trời vị ở trên, đất vị ở dưới, người thành vị ở giữa, có gì quý trọng hơn vị làm người nữa rư?
Vậy nên Dịch nói rằng: Quân tử tư bất xuất kì vị.
Xuất nghĩa là trật ra ngoài. Tư bất xuất kì vị nghĩa là nghĩ làm sao cho đừng trật ra ngoài vị.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Lục: Cấn kì chỉ, vô cựu, lị vĩnh trinh.
初六: 艮其趾, 無咎, 利永貞.
Sơ Lục ở dưới hết quẻ Cấn, tượng như ngón chân. Người ta đứng dậy đi, tất trước động ngón chân. Sơ Lục bắt đầu vào thì cấn, chính là động chi, Sơ mà biết cẩn thận hay chỉ, ấy là cấn kì chỉ, nghĩa là: Lúc đầu thoạt ra động mà đã biết chỉ ngay. Thế thời được vô cựu, nhưng mà nghĩa ở thì Cấn, cốt nên chỉ mà chỉ, tất phải thường kiên cố lâu dài, hữu thỉ hữu chung, không bao giờ mắc lỗi táo động; như thế, mới được hoàn toàn mỹ mãn, nên Hào từ lại răn rằng: Lị vĩnh trinh. Vĩnh trinh nghĩa là thường lâu bền chính.
Tượng viết: Cấn kì chỉ, vị thất chính dã.
象曰: 艮其趾, 未失正也.
Chỉ hư lúc đầu, tượng như chỉ ở ngón chân, thời không đến noi sai mất chính đạo vậy. Vì Lục cư Sơ có nghi là thất chính nên Tượng từ răn cho như thế.
2. Lục Nhị: Cấn kì phì, bất chửng kì tùy, kì tâm bất khoái.
六二: 艮其腓, 不拯其隨, 其心不快.
Lục Nhị cư trung đắc chính, vẫn là hạng người đúng được đạo chỉ, nhưng chỉ vì trên không người ứng viện. Nhị lại ở dưới Cửu Tam, Tam dương cương bất trung mà lại có quyền hạn chế được Nhị; Nhị đã không sức hạn chế được Tam thế tất phải thuận theo với Tam, thành ra Nhị tượng như bắp chân, chỉ theo vào về chấn mà động nên nói rằng: Cấn kì phì, nghĩa là chỉ bằng một cách cáì bắp chân. Tam có quyền chỉ được mình mà mình thời không sức chỉ được Tam, dầu có biết Tam lầm lỗi mà không thể chữa được, té ra Nhị chỉ một kẻ tùy mà thôi, nên nói rằng: Bất chửng kì tùy. Nhị đã là một người tùy với Tam nên trong lòng Nhị không lấy gì làm vui thích.
PHỤ CHÚ: Hào từ này in như việc thầy Mạnh với Tề Tuyên Vương. Vương nói hiếu sắc, thầy cũng chiều mà nói Thái Vương hiếu sắc. Vương nói hiếu hóa, thầy cũng chiều mà nói Công lưu hiếu hóa. Há thầy không muốn chửng cứu Tể Vương đâu, nhưng kết quả Tề Vương không biết nghe lời, thầy phải bỏ nước Tề mà đi, ấy là bất chửng kì tùy, kì tâm bất khoái.
Tượng viết: Bất chửng kì tùy, vị thối thính dã.
象曰: 不拯其隨, 未退聴也.
Lục Nhị tùy với Cửu Tam mà không cứu chửng được Lục Tam nhưng há phải tội tại Nhị đâu, chỉ vì Tam ở trên mà chẳng chịu lui xuống nghe Nhị đó vậy.
3. Cửu Tam: Cấn kì hạn, liệt kì dần, lệ huân tâm.
九三: 艮其限, 列其夤, 厲薰心.
Cửu Tam ở trên hết Nội Quái làm chủ quẻ cấn, xử vào địa vị trung đoạn. Theo về thể người, chính là đương ở chốn yêu hạn (Hạn là vừa khoảng phân cách trên dưới, tục ta gọi bằng lưng quần). Cửu Tam dương cương bất trung mà ở vào chốn hạn, chỉ vào chốn phân cách trên dưới. Như thế thời tiến lên mà kẻ trên không nghe, lui xuống mà kẻ dưới không phục, in như một người mắc bệnh quan cách, đứt ngang ở giữa xương sống, nguy khốn biết chừng nào, e đến nỗi buồn bã âu sầu mà lo đến nỗi cháy cả ruột, nên nói rằng: Cấn kì hạn, liệt kì dần lệ, huân tâm.
Dần nghĩa là xương sống vừa ngang lưng; liệt nghĩa là chia xé; huân nghĩa là un đốt; chia xé xương sống nguy đến nỗi cháy cả ruột. Hình dung tình hình của Tam: mất lòng trên, dưới nên nỗi kết quả nguy khốn như thế.
Tượng viết: Cấn kì hạn, nguy, huân tâm dã.
象曰: 艮其限, 危薰心也.
Cấn bằng một cách hạn tuyệt trên dưới, kết quả chỉ nguy cháy lòng mà thôi.
4. Lục Tứ: Cấn kì thân, vô cựu.
六四: 艮其身, 無咎.
Lục Tứ: bắt đầu vào Thượng Quái, ở về đoạn giữa quẻ là vừa đúng với thân người. Lục cư Tứ là đắc chính, ở vào thì Cấn nên biết chỉ mà chỉ, chỉ vừa đúng chốn chỉ, tượng như Cấn kì thân. Vì Hào từ ở đoạn giữa nên thủ tượng bằng thân, thân đã chỉ được đúng, tuy không công nghiệp gì lớn, nhưng cũng khỏi tội lỗi.
PHỤ CHÚ: Chữ "cấn kì thân" ở đây, cũng tương tự như "cấn kì bối" ở Quái từ, duy Quái từ thời bất hoạch kì thân là quên được cả mình. Lục Tứ thời chỉ cấn kì thân là còn biết có mình, khác nhau chỉ hai chữ mà giới hạn thánh với phàm rất xa; đọc Dịch nên biết ý ấy.
Tượng viết: Cấn kì thân, chỉ chư cung dã.
象曰: 艮其身, 止諸躬也.
Cung nghĩa là bản thân riêng của mình. Lục Tứ Cấn thân là hay chỉ được giữa bản thân mà không công nghiệp gì đến ai, nên Tượng Truyện nói rằng chỉ chư cung dã. Chữ chư cũng như nghĩa chữ ư, thay chữ kì cũng là đại danh từ. Ba chữ "chỉ chư cung" là nói Lục Tứ tự mình chỉ lấy mình mà không vì ai hạn chế.
5. Lục Ngũ: Cấn kì phụ, ngôn hữu tự, hối vong.
六五: 艮其輔, 言有序, 悔亡.
Lục Ngũ ở giữa quẻ trên. Theo thể người thời hào Thượng ở trên đầu, hào Ngũ chính dương vào chốn miệng mép nên nói rằng: Cấn kì phụ. Phụ là mép ở bên miệng. cấn kì phụ nghĩa là miệng mép không khinh dị nói phô, dầu có khi nói, nhưng nói có thứ tự, việc đáng nói mới nói, việc gì chưa đáng nói thời không nói. Ngôn hữu tự như thế, tất được hối vong.
Tượng viết: Cấn kì phụ, dĩ trung chính dã.
象曰: 艮其輔, 以中正也. Lục Ngũ chỉ ở miệng mép. Nếu chưa nói, nói tất nhiên hay là vì Ngũ có đức trung vậy.
PHỤ CHÚ: Đức Khổng Tử nói rằng: Người có đức tất có lời nói hay, người chỉ có lời nói, không chắc là người có đức. Xưa vua Cao Tôn ba năm không nói, đến khi nói một lời thời bốn bể thảy tín ngưỡng. Tề Uy Vương ba năm không gáy, đến khi gáy một tiếng mà nước Tề chấn kinh. Đó chinh là ngôn hữu tự mà hối vong như hào này vậy.
6. Thượng Cửu: Đôn cấn, cát.
上九: 敦艮, 吉.
Thượng Cửu ở cuối cùng quẻ Cấn là Cấn chi chung, chỉ chi cực, vả lại bản thân Thượng Cửu có đức dương cương, có tính đốc thực mà làm chủ cho quẻ Cấn, thiệt là người đức thịnh nết dày, chỉ ở rất lành nên được cát nên Hào từ nói rằng: Đôn cấn, cát. Đôn nghĩa là dày dặn, dày dặn ở đạo Cấn, có gì tốt hơn.
Người ta ở đời quý trọng nhất chữ hậu, bao nhiêu người phù hiệu, dầu làm việc nhỏ có hay chăng. Nếu gánh nặng mang lớn, tất cần phải có người trọng hậu.
Sử Tàu như Chu Bột phò Hán Cao Đế, Hoắc Quang phò Chiêu Đế. Sử ta như Trần Hưng Đạo, Lê Cương Quốc Công (Nguyễn Xí) thảy là người trọng hậu rất mực mà làm nên sự nghiệp to lớn.
Xem suốt sử Đông, Tây, chẳng một người nào khinh táo phụ bạc mà làm nên việc lớn. Thế mới biết: Đôn cấn cát, vẫn là sự thiệt. Xem Tượng Truyện lại càng rõ lắm.
Tượng viết: Đôn cấn chi cát, dĩ hậu trung dã.
象曰: 敦艮之吉, 以厚終也.
Sáu hào quẻ Cấn, duy đến hào Thượng Cửu đôn cấn, mới được chữ cát. Bởi vì việc thiên hạ tất có hoàn toàn đến lúc chung mới là cát, tất phải dày dặn cho đến lúc chung mới là hữu chung, lấy đức hậu mà hữu chung nên được cát.
PHỤ CHÚ: Đọc Dịch đến Quái từ quẻ Cấn là quẻ rất tốt. Đọc Hào từ quẻ Cấn, đến Hào từ Thượng Cửu thiệt là hào rất tốt.
Cấn là tượng bằng núi, núi là một giống rất trọng hậu. Người có đức trọng hậu, còn gì tốt hơn. Lời Soán Truyện nói rằng: Động tĩnh bất thất kì thì, kì đạo quang minh. Khi động mà nhằm vào thì, khi tĩnh cũng nhằm vào thì, đạo Cấn ngày càng rực rỡ. Quẻ Đại Súc là quẻ Ngoại Cấn cũng nói: Đốc thực huy quang, nhật tân kì đức. Đã đốc thực mà lại có huy quang, ngày ngày càng mới được đức minh, đủ bấy nhiêu lời tốt, chẳng phải vì trọng hậu mà được thế rư?
Thánh nhân sợ người ta nhận lầm người trọng hậu là người không tài, nhưng xưa nay những người đại tài bao nhiêu thời lại là người trọng hậu bấy nhiêu. Vì có uẩn súc được dày dặn thời đến khi phát triển mới rõ ràng, duy đốc thực mới huy quang, chính là điểm rất tốt của Cấn. Vì vậy nên trong Dịch gồm tám quẻ Ngoại Cấn, đến hào Thượng thảy là cát mà chính giữa bản thân Cấn thời lại nói rằng: Dĩ hậu chung. Thượng Cửu quẻ Bí thượng đắc chí dã. Thượng Cửu quẻ Bác dân sở tái dã. Thượng Cửu quẻ Đại Súc đạo đại hành dã. Thượng Cửu quẻ Cổ chí khả tắc dã. Thượng Cửu quẻ Di đại hữu khánh dã. Thượng Cửu quẻ Tổn đại đắc chí dã. Thượng Cửu quẻ Mông lị ngự khấu dã.
Tất thảy những hào Thượng ở Ngoại Cấn, Hào từ đã tốt, Tượng Truyện lại hết sức tán dương. Tổng chi, nạp vào hai chữ hậu chung. Bởi vì đốc thực lại huy quang, chính là kết quả của một chữ hậu.
Hậu là phản đối với chữ bạc. Hậu chỉ có nghĩa là dày, đất sở dĩ chở được núi sông, dung được bốn bể, nuôi được muôn vật, chỉ vì có đức hậu mà thôi, nền móng dày mới dựng được nhà lớn, lực lượng dày mới cất nổi được gánh nặng.
Xưa nay chẳng thấy hạng người nào mỏng mảnh mà làm nên nghiệp lớn, ý nghĩa ba chữ "đôn cấn, cát" học giả chẳng nên thể nhận hay sao, đó là nói về sự thật vẫn như thế, còn nói về phần triết lí thời bốn câu Soán từ ở đầu quẻ, càng nên nghiên cứu.
53. QUẺ PHONG SƠN TIỆM
Tốn trên; Cấn dưới
Quẻ này là quẻ Phong Sơn Tiệm. Cấn hạ cũng là Nội Cấn, Tốn thượng cũng là Ngoại Tốn. Tốn phong, Cấn sơn, nên tên quẻ đọc bằng Phong Sơn Tiệm.
TỰ QUÁI
Tự quái: Cấn giả chỉ dã, vật bất khả dĩ chung chỉ, cố thụ chi dĩ Tiệm, Tiệm giả tiến dã.
序卦: 艮者止也, 物不可以終止, 故受之以漸, 漸者進也.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Cấn, tiếp lấy quẻ Tiệm là vì cớ sao?
Trên đây là quẻ Cấn, Cấn nghĩa là chỉ. Vật lí không giống gì là tuyệt đối chỉ. Hễ đã chỉ tất có lúc tiến, chỉ mà nảy ra cũng là tiến. Vậy nên sau quẻ Cấn tiếp lấy quẻ Tiệm. Tiệm nghĩa là tiến lên, nhưng tiến lên tất phải tiến lên lần lần, tất phải có thứ tự nên đặt tên quẻ bằng Tiệm.
Quẻ này trên Tốn, dưới Cấn, tượng là trên núi có cây. Vật lí tiến lần lần mà có thứ tự rất rõ ràng dễ thấy, không gì rõ bằng cây ở trên núi. Vì tượng như thế nên tên quẻ đặt bằng Tiệm.
SOÁN TỪ
Tiệm, nữ quy, cát, lị trinh.
漸, 女歸, 吉, 利貞.
Thông lệ trong Dịch, hễ các lời quẻ, có khi tùy mỗi thì, có khi tùy mỗi việc, có khi nói chung cả nghĩa quẻ, có khi nói riêng một nghĩa trong quẻ. Còn như quẻ Tiệm là nói riêng một nghĩa trong quẻ.
Theo về tượng quẻ, Cấn chỉ ở dưới, Tốn thuận ở trên, có ý là tiến mà không vội tiến. Việc trong thiên hạ tuy cũng có việc đáng tiến mau, nhân vì cơ hội đã tới nơi, hoặc vì hoàn cảnh xui giục, như những việc hành binh, việc thông tin cũng không thể nhất luật là tiệm mới được.
Duy một việc gả con gái lấy chồng đi về nhà chồng, tất phải tiến có thứ tự mà không tiến gấp được; nên Quái từ nói rằng: Tiệm, nữ quy cát, nghĩa là con gái theo chồng mà làm một cách bằng tiệm thời được cát.
Bởi vì đạo của quân tử, tạo đoan hồ phu phụ nên bắt đầu phải thẩm thận thung dung mà về phần riêng con gái, lại càng nên tiệm tiến lắm. Nữ quy mà đúng với cách tiệm tiến thời con gái ấy mới là trinh chính, được như thế mới là thuận lị, nên Quái từ nói rằng: Lị trinh. Nói trái lại, nếu bất trinh thời bất cát.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Tiệm chi tiến dã, nữ quy cát dã. Tiến đắc vị, vãng hữu công dã; tiến dĩ chính, khả dĩ chính bang dã. Kì vị cương đắc trung dã. Chỉ nhi tốn, động bất cùng dã.
彖曰: 漸之進也, 女歸吉也. 進得位, 往有功也; 進以正, 可以正邦也. 其位, 剛得中也. 止而巽,
動不窮也 .
Soán viết: Tiệm chi tiến dã, nữ quy cát dã.
Cách tiến lên mà tiệm tiến như quẻ Tiệm dùng vào việc nữ quy tất nhiên được cát.
Tiến đắc vị, vãng hữu công dã; tiến dĩ chính, khả dĩ chính bang dã.
Theo ở thể quẻ thời bốn hào ở giữa quẻ âm, dương tất thảy ở vào vị chính, suy vào nhân sự, hễ tiến lên mà đúng được chính vị như thế, tất nhiên đi lên mà có công vậy.
Bởi vì lấy đạo chính mà tiến chẳng những chính được thân gia mà thôi, lại có thể chính được một nước.
Kì vị cương đắc trung dã.
Đây lại nói riêng về Cửu Ngũ: Cửu Ngũ vẫn dương cương đắc trung mà lại ở vào vị Ngũ là vị chí tôn trong quẻ, Tiệm như thế thời chắc là hữu công và chính bang được.
Chỉ nhi tốn, động bất cùng dã.
Lại theo về đức quẻ, Nội cấn chỉ là có đức an tĩnh, Ngoại Tốn thuận là có đức hòa thuận, người ta tiến lên làm việc đời, an tĩnh mà không táo, hòa thuận mà không nghịch. Thế là rất đúng với nghĩa: Tiệm tiến, chắc là tiến động mà không vấp lấy khốn cùng.
Tượng viết: Sơn thượng hữu mộc, Tiệm. Quân tử dĩ cư hiền đức, thiện tục.
象曰: 山上有木, 漸. 君子以居賢德, 善俗.
Cấn là sơn, Tốn là mộc; trên núi có cây, từ dưới thấp lần lần lên cao, đó là tượng quẻ Tiệm.
Quân tử xem tượng ấy, lấy cách Tiệm mà tu thân thời chứa trữ đức hiền: từ lúc làm sĩ mà bắt chước hiền, từ lúc làm hiền mà bắt chước thánh, khi đã nên thánh thời bắt chước cho đến thiên.
Lại lấy cách Tiệm mà dạy người: dầu từ trong một nhà, một họ, lại dần dần hóa đến một nước, một xã hội, dầm nhân thấm nghĩa, tích lũy hàng năm, hàng đời, mới cách được tục hủ xưa, gây nên nền tốt mới, như thế là dùng đạo Tiệm mà cư hiền đức, thiện tục. Cư nghĩa là chứa trữ; cư hiển đức là chứa lũy đức hiền dần lên tới cao. Chữ thiện là động từ, tích lũy công phu dạy dỗ cho thiện được phong tục, dần lên đến cực điểm. Đó là cách Tiệm của quân tử.
Cư hiền đức là đức Tiệm ở nhất thân, thiện tục là đức Tiệm đến thiên hạ.
HÀO TỪ VÀ TlỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Lục: Hồng tiệm vu can, tiểu tử lệ, hữu ngôn, vô cựu.
初六: 鴻漸于干, 小子厲, 有言, 無咎.
Hồng là một giống chim ở mặt nước, tính nó qua lại thường có mùa nhất định, mùa nóng thời nó bay qua Bắc, mùa lạnh thời nó bay qua Nam, bay thường kết bầy, con lớn bay trước, con bé bay sau, rất có thứ tự. Đúng vào nghĩa quẻ Tiệm nên sáu hào thảy thủ tượng bằng chim hồng.
Sơ Lục ở vị Sơ là ở dưới hết quẻ, bản chất âm nhu là tài rất yếu. vả lại ở trên không có bạn ứng viện. Ở vào thì Tiệm mà tiến chỉ như thế, chắc không tiến được bao lăm, tượng như chim hồng vừa chỉ tiến đến bến nước (Can là bến sông).
Nếu những bậc đại nhân quân tử xử vào địa vị ấy, hiểu lí thức thì, xem làm một việc đương nhiên, chưa tiến được thời an lặng cũng là thích. Duy bọn tiểu nhân lũ bé, chỉ thấy ở sự thực mà không hiểu đến thì nghĩa nên lấy làm nguy cụ mà có giọng than thế. Tuy vậy mặc lòng, nhưng không việc gì trái với nghĩa Tiệm nên nói rằng: Vô cựu, nghĩa là tiến không được mau, nhưng vẫn không tội lỗi.
Tượng viết: Tiểu tử chi lệ nghĩa vô cựu dã.
象曰: 小子之厲, 義無咎也.
Tuy tiểu tử họ có lấy làm nguy lệ, nhưng theo về nghĩa thì Tiệm thời ở Sơ mà vẫn chưa tiến được vẫn không tội lỗi gì.
2. Lục Nhị: Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực hãn hãn, cát.
六二: 鴻漸于磐, 飲食衍衍, 吉.
Lục Nhị cư trung đắc chính, ở trên có hào Ngũ ứng với mình, tiến được một cách rất bình ổn thong thả, tượng như chim hồng đã xa khỏi bến nước mà lên đậu ở hòn đá lớn, thung dung tự đắc, có tượng là ăn uống thảnh thơi (Hãn hãn có nghĩa hòa vui). Như thế thời cát.
Tượng viết: Ẩm thực hãn hãn, bất tố bão dã.
象曰: 飲食衍衍, 不素飽也.
Hào từ nói rằng: Ẩm thực hãn hãn, thiệt xử một hoàn cảnh rất an bình. Theo về mắt thế tục, thiệt chỉ xem làm đắc thì sung sướng mà thôi, nhưng lòng quân tử há phải thế đâu.
Lấy đạo trung chính của bản thân mình mà giúp đỡ mọi người ở trên mình, chứ không muốn ăn suông mà không làm việc gì.
(Tố nghĩa là không, không làm việc mà ăn no, tức là tố bão, cũng như: bất tố xan hề 不素餐兮 ở Kinh Thi).
3. Cửu Tam: Hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung, lị ngự khấu.
九三: 鴻漸于陸, 夫征不復, 婦孕不育, 凶, 利禦寇.
Cửu Tam ở trên Hạ Quái là Tiệm đã đến vị khá cao, tượng như chim hồng đã tiến đến đất bằng. Hồng là chim ở nước, bây giờ tiến đến đất bằng, tuy có tiến lên, nhưng không lấy gì làm thích lắm, huống gì ở vào thì Tiệm mà Tam lại là tính chất dương cương, chắc muốn tiến hoài mà không biết ngó cổ lại. Như thế là phu chinh bất phục (Phu là chỉ vào bản thân Tam: chinh nghĩa là đi; bất phục nghĩa là không quay trở lại).
Lục Tứ âm nhu ở trên, thân cận với Tam, toan dắt Tam lên, nhưng Tam, Tứ thảy là bất trung, lại không phải chính ứng với nhau. Bây giờ lấy một cách bất chính mà cẩu hợp, tất nhiên kết quả không ra gì, tượng như phụ dựng bất dục (Phụ là chỉ vào Tứ; dựng nghĩa là có thai; dục nghĩa là nuôi được con).
Tứ với Tam kết hợp nhau cũng như thế, kết quả là xấu mà thôi.
Một người làm phu mà chinh bất phục; một người làm phụ mà dựng bất dục, giao hợp với nhau bằng cách bất chính, có khác gì trộm cướp nữa đâu, nên gọi bằng khấu.
Bây giờ nghĩ một phương pháp thiện hậu cho Tam: Chỉ nên quay lại đường chính mà cản ngự món tà. Như thế là hay biết ngự khấu thời còn lị.
Tượng viết: Phu chinh bất phục, li quần, xú dã; phụ dựng bất dục, thất kì đạo dã; lị dựng ngự khấu, thuận tương bảo dã.
象曰: 夫征不復, 離羣醜也;婦孕不育, 失其道也, 利用禦寇, 順相保也.
Phu chinh bất phục nghĩa là cứ theo ý riêng mình mà bỏ mất bầy bạn tốt, thiệt là xấu vậy. Phụ dựng bất dục là vì trái mất đạo chính vậy; lị dựng ngự khấu là hai bên phải thuận theo đạo chính để mà giữ gìn cho nhau vậy.
4. Lục Tứ: Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắc kì giốc, vô cựu.
六四: 鴻漸于木, 或得其桷, 无咎.
Lục Tứ này bản chất âm nhu, tiến lên mà ở trên hào dương cương. Tứ ở trên Tam vẫn không phải chốn ngồi an ổn được, tượng như chim hồng bay lên đậu ở cây cao. Hồng là chim ở nước mà lên đậu ở cây cao, vẫn không được an, nhưng may được nhánh bằng mà đậu. Giốc nghĩa là nhánh bằng ngang, cây vẫn không phải chốn hồng đậu, nhưng hoặc được nhánh bằng mà đậu, cũng vô cựu.
Bởi vì Tứ cư chính mà lại tốn thuận, có lẽ ở cao mà không nguy nên tỉ dụ bằng đắc kì gìốc.
Tượng viết: Hoặc đắc kì giốc, thuận dĩ tốn dã.
象曰: 或得其桷, 順以巽也. Giốc là chốn đậu được bình an, Lục Tứ mà có tượng đắc giốc là chỉ vì thuận bằng cách Tốn thời có lẽ cũng bình an được.
5. Cửu Ngũ: Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dựng, chung mạc chi thắng, cát.
九五: 鴻漸于陸, 婦三歲不孕, 終莫之勝, 吉.
Ở trong thì Tiệm, Cửu Ngũ được xử vào địa vị tối cao, mà lại chính ứng là Lục Nhị. Nhị, Ngũ tuy muốn giao hợp với nhau, nhưng mà Tam có ý ngăn đón Nhị, Tứ có ý ngăn đón Ngũ nên giao tình Nhị, Ngũ chưa được kết quả vuông tròn, tượng như cưới vợ ba năm mà chẳng thấy công sinh dục. Phụ là chỉ hào Nhị, Nhị chưa kết hợp được Ngũ nên ba năm mà chưa thấy chửa nghén.
Tuy nhiên, Tam, Tứ rặt là bọn bất chính, không thể địch nổi Nhị, Ngũ. Nhị, Ngũ là bạn trung chính, chẳng qua bị ngăn đón bấy lâu mà thôi, cuối cùng thời bọn nó phải thua Nhị, Ngũ. Nhị, Ngũ kết quả hợp nhau mà thành được công nghiệp tiệm tiến nên nói rằng: Chung mạc chi thắng, cát. Mạc chi thắng nghĩa là Tam, Tứ phải chịu thua.
PHỤ CHÚ: Theo về thể quẻ, Ngoại Tốn là Nữ, Nội Cấn là Nam. Theo về nghĩa hào, Ngũ ở quẻ trên là chồng, Nhị ở quẻ dưới là vợ. Lí Dịch thường biến dịch như thế.
Tượng viết: Chung mạc chi thắng, cát, đắc sở nguyện dã.
象曰: 終莫之勝, 吉, 得所願也.
Nhị, Ngũ trung chính, thanh ứng khí cầu, hai bên biết hợp nhau, vẫn là sở nguyện. Tuy trung gian bị Tam, Tứ gián cách, nhưng tà bất thắng chính. Nhị, Ngũ thỉ tuy li mà chung tất hiệp, kết quả thời Tam, Tứ phải chịu thua mà sở nguyện Cửu Nhị, Ngũ hoàn toàn viên mãn.
6. Thượng Cửu: Hồng tiệm vu quì, kì vũ khả dụng vi nghi, cát.
上九: 鴻漸于逵, 其羽可用為儀, 吉.
Quì nghĩa là đường mây mà chốn ở giữa hư không, người ta thường bảo là vân lộ. Theo như thường lệ, hào vị trong một quẻ thảy đến hào Ngũ là rất tôn, đến hào Thượng lại địa vị cao hơn hào Ngũ, té ra cao nhi vô vị, tượng như chim hồng bay tới tuốt đường mây mà không chốn đậu. Nếu ở thì khác là vô dụng, nhưng thì Tiệm thời tiến đến cực cao cũng không phải là vô dụng, chính là một hạng người siêu nhiên xuất thế, không làm việc nhân gian, nhưng mà cao tiết thanh phong, nêu một cái gương cao thượng cho người đời, tượng như chim hồng tuy ở trên mây vẫn không làm bạn với những món chim lồng mà cái lông nó rơi ra còn dùng làm được những đồ hành nghi. Vũ nghĩa là lông chim; nghi là cái đồ dùng làm cờ quạt; vi nghi là tỉ dụ bằng thanh giá của Thượng Cửu.
PHỤ CHÚ: Thượng Cửu là một hạng người không sụp vào lưới đời, duy có cao danh kì khí lưu ở nhân gian. Tỉ như Ồng Phạm Viên ở nước ta, ông Thái Qua Nhĩ ở nước Ấn Độ, một người thời lấy cách thần tiên mà khinh miệt cả vương hầu, một người thời lấy phẩm thanh thơ mà tiêu giao khắp Âu, Á, thiệt là chim hồng bay ở đường mây mà lông rơi còn dùng được làm nghi biểu đó vậy.
Tượng viết: Kì vũ khả dụng vi nghi, cát, bất khả loạn dã.
象曰: 其羽可用為儀, 吉, 不可亂也.
Hào từ Thượng Cửu là nói một hạng người tiến lên đến cực cao, đứng ra người địa vị của thế tục, mặc dầu khóa lị xiềng danh không giống gì rối loạn được chí của người ấy, nên Hào từ tán cho rằng: Kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát.
PHỤ CHÚ: Chúng ta đọc quẻ Tiệm mà biết rằng: Chữ thì trong Dịch, thiệt là quán thỉ quán chung; chữ Tiệm là thì chung của Toàn quẻ, tức là thì chung của một xã hội, sáu hào là thì riêng của mỗi hào, tức là thì riêng của mỗi người trong xã hội ấy. Vì thời đại riêng khác nhau nên Hào từ trong sáu hào, tằng thứ tiệm có trước sau, thang bực tiệm có cao thấp. Sơ vì địa vị quá thấp nên tiệm vu can. Nhị vì địa vị đã nhích lên mà tài lại trung chính nên tiệm vu bàn. Tam vì địa vị bán thượng lạc hạ nên tiệm tuy khá cao mà không được an vị nên tiệm vu lục; Tứ địa vị cũng như Tam, mà tài lại thua Tam, sở xử còn đương bấp bỏng nên tiệm vu mộc mà lại nói hoặc đắc kì giốc. Chữ hoặc đắc ở đây in như chữ hoặc được ở hào Tứ quẻ Càn. Hoặc dược thời mong tiến mà chưa chắc đã tiến. Hoặc đắc thời mong được mà chưa chắc đã được, chỉ vì thì còn ở chốn nguy nghi mà phải như thế. Đến Cửu Ngũ thời địa vị vừa đắc trung vừa đắc chính mà lại gặp lúc thì Tiệm đã tối cao nên tiệm vu lăng mà chung đắc sở nguyện. Đến Thượng Cửu là thì Tiệm đã đạt tới cực điểm, thiệt là cánh hồng bay bổng tuyệt vời nên tiệm vu quì mà vũ khả dụng vi nghi.
Tổng chi, sáu hào thảy là hồng cả, thảy ở vào thì Tiệm cả, nhưng vì thì riêng của mỗi hào khác nhau mà can, bàn, lục, mộc, lăng, quì cũng khác nhau mỗi hào mỗi vị trí. Đó chính là diệu dụng của chữ thì, in như sáu hào quẻ Càn tổng chi là long cả, vì thì riêng của mỗi hào khác nhau mà tiềm, hiện, dược, phi, kháng cũng khác nhau.
Nói tóm lại, thì là một vị thánh sư dạy cho ta làm việc mà cũng là cỗ xe tốt đẩy cho ta lên đường. Nếu thì chưa tới, dầu tài đức đến thế nào, cũng khó trước thì mà làm gắng. Thì nếu đã qua thời dầu phách lực đến thế nào cũng khó sau thì mà kéo lại.
Vậy nên, chúng ta muốn làm sự nghiệp tạo thì, cần thứ nhất là trước phải có cặp mắt xem thì, mà thì chung với thì riêng lại cần cân nhắc lắm. Nếu thì chung với thì riêng đã rập với nhau, dám chắc trong thiên hạ không việc gì khó.
54. QUẺ LÔI TRẠCH QUY MUỘI
Chấn trên; Đoái dưới
Quẻ này là quẻ Lôi Trạch Quy Muội. Đoài hạ cũng là Nội Đoài, Chấn thượng cũng là Ngoại Chấn. Chấn lôi, Đoài trạch, nên tên quẻ đọc bằng Lôi Trạch Quy Muội.
TỰ QUÁI
Tự quái: Tiệm giả tiến dã, tiến tất hữu sở quy, cố thụ chi dĩ Quy Muội.
序卦: 漸者進也, 進必有所歸, 故受之以歸妺.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Tiệm, tiếp lấy quẻ Quy Muội là vì cớ sao?
Trên đây là quẻ Tiệm, Tiệm nghĩa là tiến hễ đã tiến lên, tất có chốn tới nơi, tượng như người đi đường, tất phải có mục đích địa, nên sau quẻ Tiệm, tiếp lấy quẻ Quy Muội. Quy Muội nghĩa là người con gái gả về nhà chồng; muội nghĩa là người con gái nhỏ, cũng có nghĩa là con gái em.
Quẻ này Chấn trên, Đoài dưới là thiếu nữ theo với trưởng nam. Chấn có tính động, Đoài có tính duyệt, trưởng nam động mà thiếu nữ duyệt, thành tượng thiếu nữ gả về trưởng nam nên tên quẻ đọc bằng Quy Muội.
SOÁN TỪ
Quy muội, chinh hung, vô du lị.
歸妺征凶, 無攸利.
Quẻ này là quẻ phản đối với quẻ Tiệm. Tiệm, vì có nghĩa là tiệm tích, theo về đức quẻ lại là chỉ mà tốn nên Quái từ nói rằng nữ quy cát, còn quẻ Quy Muội đây, theo về thể quẻ thời Đoài thiếu nữ ở dưới, Chấn trưởng nam ở trên, trái với nguyên tắc việc giá thú là nam phải há nữ; vả theo về đức quẻ thời lại duyệt mà động, động cơ chỉ có duyệt mà thôi.
Thiếu nữ với trưởng nam, đôi lứa đã không cân địch với nhau, vả lại xét trong mỗi Hào từ, hào Nhị với hào Ngũ tất thảy là bất chính, duyệt mà bất chính đã là xấu rồi, vả lại thiếu nữ tự động mà theo trưởng nam, lại càng xấu nữa. Quy muội mà như thế, tất nhiên chinh hung mà lại vô du lị. Vô du lị nghĩa là không việc gì tốt.
PHỤ CHÚ: Cảm tình rất nặng là nam nữ mà tạo đoan việc phu phụ lại là nam nữ, nhưng quẻ Hàm thời nói rằng thú nữ cát, cớ sao quẻ Quy Muội lại nói chinh hung, vô du lị. Bởi vì có nam nữ mới thành được phu phụ, có phu phụ mới thành được loài người. Nếu không cảm tình thời làm sao thành được phu phụ, nhưng cảm tình tất phải chính đáng. Quẻ Hàm nam ở Hạ Quái, nữ ở Thượng Quái là nam cầu lấy nữ, nữ thuận với nam, vả các hào thảy là chính ứng với nhau. Vì vậy Quái từ có chữ "cát" chữ "hanh".
Kìa như quẻ Quy Muội, thiếu nữ ở Hạ Quái là nữ trước cầu lấy nam, nam đã bị động mà theo nữ, đó là cảm tình đã bất chính, vả lại ở trung gian hào vị tất thảy là bất chính nên Quái từ có chữ "hung", "vô du lị". Cảm tình chính thời nam nữ phối hợp là đầu hết mọi việc tốt, cảm tình tà thời nam nữ phối hợp là đầu hết mọi việc xấu. Thánh nhân muốn cho người ta hết sức thận trọng ở việc nam nữ nên Quái từ của hai quẻ, hết sức phù chính ức tà là nghĩa như thế.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Quy Muội, thiên địa chi đại nghĩa dã. Thiên địa bất giao, nhi vạn vật bất hưng, Quy Muội nhân chi chung thỉ dã. Duyệt dĩ động, sở quy muội dã; chinh hung, vị bất đáng dã; vô du lị, nhu thừa cương dã.
彖曰: 歸妺, 天地之大義也. 天地不交而萬物不興, 歸妺人之終始也. 說以動, 所歸妺也, 征凶, 位不當也,
無攸利, 柔乘剛也.
Soán viết: Quy Muội, thiên địa chi đại nghĩa dã. Thiên địa bất giao, nhi vạn vật bất hưng, Quy Muội nhân chi chung thỉ dã.
Soán Truyện ở đây lại lấy chữ Quy Muội mà kể cho hết nghĩa rất to lớn. Nguyên lai, sở dĩ có tạo hóa chỉ vì nhất âm nhất dương chi vị đạo mà thôi. Vì âm dương giao cảm mà có nam nữ, vì nam nữ phối hợp mà loài người mới sinh ra bất cùng. Vậy nên, Quy Muội là nghĩa lớn của trời đất. Nhất dương là khí của trời, nhất âm là khí của đất, nên âm dương cách tuyệt, thế là thiên địa bất giao mà vạn vật không bao giờ sinh dục được. Vì thiên địa giao mà âm dương hiệp tác, âm dương hiệp tác mới có nam nữ phối hiệp nhau, đương lúc con gái gả đi lấy chồng, chính là kết quả của công việc con gái mà lại bắt đầu làm việc sinh dục, nữ chi chung ở đó mà nhân chi thỉ cũng từ đó, nên nói rằng: Quy Muội nhân chi chung thỉ dã.
Duyệt dĩ động, sở quy muội dã, chinh hung, vị bất đáng dã; vô du lị, nhu thừa cương dã.
Từ đây sắp xuống là thích nghĩa Quái từ. Theo về đức quẻ, Đoài duyệt, Chấn động, chỉ vì cảm duyệt nhau mà có cơ phát động. Đã vì duyệt mà động thời con gái theo con trai nên mới có Quy Muội. Quy Muội là lẽ đáng tốt, cớ sao lại nói chinh hung? Là vì bốn hào ở giữa quẻ thảy xử không đáng vị. Xử bất đáng vị tức là bất chính, đã bất chính tất nhiên hung. Chẳng những vị bất đáng mà thôi, lại còn có cách xấu nữa.
Trong quẻ, Lục Tam, Lục Ngũ là âm nhu, Tam âm cưỡi trên Nhị dương, Ngũ âm cưỡi trên Tứ dương, hào nhu cưỡi trên hào cương.
Lại theo thể quẻ: Nội Đoài tượng là một âm cưỡi trên hai dương, Ngoại Chấn tượng là hai âm cưỡi trên một dương, cũng tượng là nhu thừa cương, thành ra gái áp chế trai, vợ áp chế chồng, trái thường, loạn lí, còn có gì xấu hơn nên Quái từ lại nói: Vô du lị là chỉ vì nhu thừa cương mà thôi.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Trạch thượng hữu lôi, Quy Muội, quân tử dĩ vĩnh chung tri tệ.
象曰: 澤上有雷, 歸妺, 君子以永終知敝.
Đoài trạch ở dưới, Chấn lôi ở trên, nước chằm tùy sấm mà động, dương động ở trên, âm duyệt mà theo, chính là tượng con gái theo con trai nên đặt tên bằng quẻ Quy Muội. Quân tử xem tượng Quy Muội nên nhận ra được: Khi tạo đoan đã bất chính như quẻ này, suy cho đến cuối cùng, chắc rồi có tệ hại (Chữ vĩnh ở đây là động từ, vĩnh chung là suy câu cho dài đến lúc chung).
Thường lí trong thiên hạ, chẳng việc gì là việc chẳng có chung, mà đến chung thường có tệ hại, chẳng những việc vợ chồng mà thôi, hễ việc gì cũng thế, nhưng suy nguyên cho đến lí do sở dĩ tệ, tất phải nghiên cứu cho đến lúc chung mới biết được có tệ. Sở dĩ tệ là vì lúc đầu không được cẩn thận. Lúc đầu không cẩn thận thời tệ hại nhân đó mà sinh ra, muốn cho khỏi tệ hại ở lúc chung, tất phải cẩn thận ở lúc thỉ. Quân tử xem tượng Quy Muội mà suy ra nhất thiết sự vật, phải hết sức cẩn thận từ lúc thỉ, cho được vô tệ ở lúc chung.
PHỤ CHÚ: Tượng Truyện quẻ Tụng quân tử dĩ tác sự mưu thỉ, Tượng Truyện quẻ Quy Muội quân tử dĩ vĩnh chung tri tệ, hai Tượng Truyện ấy đắp đổi phát minh cho nhau.
Hễ sự lí trong thiên hạ, hay mưu ở lúc thỉ mà cầu cho hoàn toàn thời mới vĩnh được chung, hay vĩnh đến lúc chung mà phòng khỏi tệ hại tất phải mưu ở lúc thỉ. Tượng Truyện tuy vẫn khác nhau mà nghĩa vẫn quán hợp với nhau. Học giả nên góp xem cả hai bên thời mới biết học Dịch.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Cửu: Quy Muội dĩ đệ, phả năng lí, chinh, cát.
初九: 歸妹以娣, 跛能履, 征吉.
Hào từ sáu hào, theo về nghĩa của mỗi hào nên Quái từ thời Quy Muội chinh hung mà Hào từ thời lại khác thế.
Sơ Cửu này có đức dương cương, thuộc về phần con gái là một người có đức hiền, nhân vì vị Sơ ở dưới thấp mà trên không chính ứng, tượng là phận đệ thiếp, chỉ là giúp đỡ cho chính thê mà thôi, nên nói rằng: Quy muội dĩ đệ, nghĩa là lấy phận một người đệ mà theo người vợ chính, tuy co đức hiền, nhưng phải dựa theo người ta, lại tượng như người chân thọt mà hay đi. Vì địa vị như thế, vẫn không được sang trọng.
Nhưng theo về bản phận của Sơ thời cũng có lẽ tốt lành nên Hào từ lại nói chinh cát, nghĩa là cứ như thế mà đi thời được cát.
PHỤ CHÚ: Lệ đời xưa ở đời phong kiến, thiên tử, chư hầu, hễ cưới một người vợ đích, tất có năm ba người hoặc em gái hay cháu gái đi theo với vợ đích, gọi bằng đệ. Sơ Cửu ở về thì Quy Muội mà phận hèn, vị thấp phải thuận tòng với người trên nên thủ tượng bằng đệ. Chữ chinh cát phản đối chữ chinh hung trên Quái từ. Thiếu nữ bị động về tư tà nên chinh thời hung. Sơ Cửu bị động vì phận vị, nếu làm đích thê như thế vẫn không gì tốt, nhưng làm đệ thời lại xứng với thân phận, theo thì nghĩa của Sơ nên nói rằng chinh cát. Dịch lí biến hóa bất thường, theo địa vị mỗi người thời khác nhau, không thể chấp nhất được.
Tượng viết: Quy muội dĩ đệ, dĩ hằng dã; phả năng lí, cát, tương thừa dã.
象曰: 歸妺以娣, 以恒也, 跛能履, 吉, 相承也.
Theo như quẻ Quy Muội thời lẽ thường của vợ chồng mà thiếu nữ tự quy là trái thường, duy đệ thiếp theo vợ đích mà về, lại là phận thường của nó. Hằng nghĩa là thường, vì đúng với phận thường, tuy không được tự chuyên mặc dầu, nhưng hay giúp đỡ cho người trên, cũng là đúng với bản phận vậy, nên nói rằng: Phả năng lí, cát.
2. Cửu Nhị: Diếu năng thị, lị u nhân chi trinh.
九二: 眇能視, 利幽人之貞.
Cửu Nhị bản chất dương cương mà lại đắc trung, là một người con gái hiền trinh, đáng lẽ được người chồng rất tốt; rùi gặp người chính ứng là Lục Ngũ, Ngũ lại âm nhu bất chính. Thế là người con gái hiền mà đụng lấy chồng dở. Nhị tuy hiền đức, nhưng không thể lấy một sức mình mà làm nên công việc tề gia, chẳng qua giữ được tròn nghĩa vụ mình mà thôi. Vậy nên Hào từ thương tiếc cho Cửu Nhị mà có lời thí dụ rằng: Cảnh ngộ Nhị này tượng như người nheo mắt mà còn hay dòm, chỉ vừa dòm được gần mà thôi, nhưng theo về đức tính của Nhị, cương chính u tĩnh, thỉ chung giữ được chữ trinh, cứ nên như vậy dầu có bất ngẫu cũng chẳng thiệt hại gì. U nhân nghĩa là người kín lặng. Có đức tính kín lặng, mới giữ được trinh chính. Thế là lị cho Cửu Nhị.
PHỤ CHÚ: Hào từ đây ở vào thì Quy Muội mà không nói chữ Quy Muội, bởi vì Dịch lí bao hàm rộng lớn, chứ không phải chuyên nói về chuyện nam nữ mà thôi.
Xưa nay tôi hiền chẳng gặp được vua thánh, tớ hiền chẳng gặp được thầy hay, những người trái thì bất ngẫu mà cố giữ lấy đức kiên trinh, công nghiệp tuy chẳng lấy gì làm vẻ vang mà chi tiết vẫn đã đáng quý trọng, thảy như hào Nhị đây, nên Hào từ nói rằng lị u nhân chi trinh để làm gương cho những người bất ngộ thì đó vậy.
Tượng viết: Lị u nhân chi trinh, vi biến thường dã.
象曰: 利幽人之貞, 未變常也.
Vợ tốt mà đụng lấy chồng xấu, nhưng cứ một mực giữ lấy đức trinh của u nhân. Thế là cảnh ngộ tuy biến,mà đạo lí vẫn cứ thường. Theo đạo thường của phu phụ vẫn chẳng biến đó vậy.
3. Lục Tam: Quy muội dĩ tu, phản quy dĩ đệ.
六三: 歸妺以須, 反歸以娣.
Lục Tam ở trên hết Hạ Quái, đáng lẽ không phải là người làm đệ, nhưng vì Lục Tam âm nhu mà lại bất trung, bất chính, bản thân lại làm chủ cho Đoài duyệt, chính là một người con gái nặng về phần cảm tình, thấy người thời duyệt, duyệt mà cầu theo người, tính nết gái như thế nên không ai chịu cưới rước mình, ở vào thì Quy Muội, vẫn sẵn lòng quy muội mà không biết quy vào đâu, chỉ là đợi suông (Tu nghĩa là chờ đợi, chờ mãi, chờ hoài mà không ai lấy, âu là trở về mà làm một người đệ thiếp, may còn khá chăng).
Hào từ như hào này là bỉ tiện chi cực, nhưng không chỉ nói riêng về người con gái mà thôi đâu.
Hễ những hạng người xuất thân bất chính, hoặc say phú quý, hoặc mến công danh mà nóng nảy cầu theo người, kết quả bị người ti bỉ, chỉ đứng vào vòng nô lệ mà thôi, có khác gì con gái nóng cầu chồng mà kết quả chỉ là phần đệ thiếp.
Ngẫm nghĩ ý tứ Hào từ này, chúng ta ở đời chẳng nên thủ chính mà tự trọng lắm hay sao?
Tượng viết: Quy muội dĩ tu, vị đáng dã.
象曰: 歸妺以須, 未當也.
Lục Tam sở dĩ Quy muội dĩ tu, bởi vì tư cách làm người của Tam không gì là chính đáng vậy. Ãm nhu mà xử vào vị cương; cầu chồng mà chỉ dùng vào cách duyệt, còn gì là kết quả tốt nữa rư?
4. Cửu Tứ: Quy muội khiên kì, trì quy hữu thì.
九四: 歸妺愆 期, 遲歸有時.
Cửu Tứ trái với Lục Tam, Tam là hạng người tự tiện mà không nên gì. Cửu Tứ là hạng người biết tự thủ mà chắc có lẽ hay. Cửu là dương cương, dương cương thời có tính chất hiền, Tứ ở quẻ trên thời địa vị cũng không hèn thấp, chính là ngườì con gái đã hiền lại quý, cứ lẽ thời sớm được chồng tốt là phải, nhưng vì ở vào thì Quy Muội mà trong quẻ không có hào chính ứng với mình, thành ra quy muội khiên kì (Khiên nghĩa là sai lạc; khiên kì nghĩa là quá thì rồi mà chưa về nhà chồng), nên nói rằng khiên kì.
Tuy nhiên, vị quý đức hiền như Cửu Tứ, há lẽ không chồng hay sao? Chỉ vì ngọc lành còn đợi giá cao, dầu chậm gả ít lâu, chắc rày mai cũng có bạn tốt duyên lành, rước mình vu quy mới phải.
Chữ thì ở đây là nghĩa hẹp, nghĩa là thì về nhà chồng. Vì khiên kì nên phải trì quy, nhưng tất có thì giờ được gả chồng thì dầu có trì quy cũng chả ngại gì (Trì nghĩa là chậm).
Tượng viết: Khiên kì chi chí, hữu đãi nhi hành dã.
象曰: 愆期之志, 有待而行也. Cửu Tứ vẫn là con gái hiển, không thiếu gì người yêu chuộng; nhưng sở dĩ khiên kì, há phải vì ế hàng đâu. Vì chí của Cửu Tứ tất chờ được người chồng tốt mà sau mới chịu đi vậy.
5. Lục Ngũ: Đế Ất quy muội, kì quân chi duệ, bất như kì đệ chi duệ lương, nguyệt cơ vọng, cát.
六五: 帝乙歸妹, 其君之袂, 不如其娣之袂良, 月幾望, 吉.
Lục Ngũ âm nhu đắc trung, ở được vị tôn, thiệt là một người con gái rất cao quý, tượng như em vua Đế Ất là một vị công chúa mà lại chính ứng với Cửu Nhị là người ở dưới mình, tượng như bà công chúa mà hạ giá với bình dân. Vả lại, khi về nhà chồng chỉ tôn trọng bằng đạo đức, không cần trau dồi bằng hình thức, thử xem cái ống áo của công chúa lại chẳng đẹp bằng cái ống áo của con đệ là con đì theo hầu mình (Đế Ất là một vị vua đời nhà Thương. Muội là em gái mà là em vua Đế Ất).
Quân là chỉ vào Lục Ngũ, tỉ như bà chúa gọi bằng tiểu quân; duệ là ống áo, lương là tốt đẹp; đệ là nường hầu, ống áo của bà chúa, không đẹp bằng ống áo của cô hầu mình, ý là nói trau dồi ở đạo đức mà không cần ở hình thức vậy.
Xem như ba câu trên, thiệt là một người con gái rất cao quý mà không kiêu sa; trọng đạo đức mà không kể phục sức. Đức gái đến thế chẳng cần gì hơn, in như mặt trăng đã xấp xỉ tới rằm, chính vừa trăng hôm mười bốn, chắc viên mãn mà lại chưa đầy, rất quang minh mà có ý bất tự tức, thiệt tốt lành không biết chừng nào (Vọng nghĩa là đêm rằm; cơ nghĩa là xấp xỉ).
Kinh văn không nói trăng rằm mà nói xấp xỉ rằm, hình dung thịnh đức như thế, mới có ý vị. Bởi vì trăng đã rằm là cực điểm tròn, tất có cơ khuyết, nay chỉ nói trăng xấp xỉ rằm là thịnh mà chưa đầy, tròn mà chưa khuyết, xử vào địa vị tôn quý mà vẫn có ý khiêm hư, hình dung được như thế, mới là văn tự của thánh nhân.
PHỤ CHÚ: Hào từ ở đây, cốt dạy cho chúng ta xử thế, trọng đạo đức mà không trọng quyền vị, quý tinh thần mà không quý đến vật chất. Thế vị đời sau lấy thế tục mà kiêu người, lấy văn hoa mà lòe với chúng; đạo đức chẳng trau mà chỉ trau về y phục.
Văn minh không ruột mà chỉ lòe ở vỏ da, xin thử đọc mấy câu Hào từ đây:
Lấy một vị em gái vua, vì quý trọng đạo đức mà xuống gả với bình dân mà lại áo của mình mặc đẹp thua áo của con hầu. Thế thời người ta sở dĩ đáng quý trọng là cái gì kia, há phải tại quyền vị với vật chất đâu?
Than ôi! Thịnh suy là số thường, dinh hư là lẽ thường. Hoa đâu có tươi mãi rư, trăng đâu có tròn mãi rư. Những người phú quý kiêu nhân, có nghĩ đến lưu dư địa hay không.
Tượng viết: Đế Ất quy muội, bất như kì đệ chi duệ lương dã, kì vi tại trung, dĩ quý hành dã.
象曰: 帝乙歸妹, 不如其娣之袂良也, 其位在中, 以貴行也.
Hào từ Lục Ngũ sở dĩ nguyên văn có mấy câu như thế là muốn hình dung đức trung của Ngũ, nên tỉ dụ bằng em gái vua hạ giá mà đồ phục sức lại kém thua con hầu, thiệt là lấy thân tôn quý mà chỉ quý vì đức trung mà không quý về thế vị nên không cần gì đồ phục sức.
6. Thượng Lục: Nữ thừa khuông vô thực, sĩ khuê dương vô huyết, vô du lị.
上六: 女承筐, 無實, 士刲羊無血, 無攸利.
Thượng Lục cuối cùng quẻ Quy Muội, tượng là bao nhiêu con gái người ta gả hết rồi, bây giờ mới tới mình, lại khổ vì bản thân không chính ứng, muốn theo ngay với người, nhưng vì cẩu hợp thời lại vô chung, tượng như con gái đáng đi làm vợ người cung cấp việc tế tự, nhưng vì thừa khuông vô thực thời lấy gì làm nên được vợ rư?
Vợ không chính đáng vợ thời chồng cũng không chính đáng chồng. Vậy nên sĩ cũng khuê dương vô huyết. Như thế là nghĩa vụ hai bên chẳng bèn nào mà xong cả, còn làm gì nên được nữa rư?
Trên đây là thích tóm cả Hào từ, bây giờ lại thích nghĩa đen từ câu: Khuông là đồ xiểng cọ, trữ các đồ ăn vào xiểng cọ mà dâng lên tế tổ tiên là nghĩa vụ của người làm vợ, bây giờ bưng xiểng cọ lên mà trong không để thức gì cả, ấy là thừa khuông vô thực, thôi thời nghĩa vụ làm vợ hỏng rồi.
Khuê nghĩa là cắt cổ, cắt cổ dê lấy máu dâng lên trước bàn thờ là nghĩa vụ của người làm chồng, bây giờ cắt cổ dê mà chỉ làm giả, kì thực không thấy huyết dê. Thôi thế là nghĩa vụ làm chồng cũng hỏng rồi.
Ý nghĩa của Hào từ này, chỉ là một đôi trai gái cầu xằng với nhau, gái vẫn không nên vợ, trai vẫn không nên chồng nên kết quả là vô du lị, nhưng lại vì ở thì Quy Muội, nặng tội về phía gái mà nhẹ tội về phía trai; gái bất chính trước mà trai bất chính sau nên Hào từ nói nữ trước mà sau mới nói tới sĩ.
Tượng viết: Thượng Lục vô thực, thừa hư khuông dã.
象曰: 上六無實, 承虛筐也.
Thượng Lục chỉ có hư danh "sĩ", "nữ" mà không thực sự bằng quy muội, vẫn không thành được phu phụ nên chỉ bưng cái hư khuông mà thôi. Trên Hào từ thời nói rằng: Thừa khuông vô thực mà chữ vô thực ở Tượng Truyện lại thuộc về Thượng Lục thời biết rằng: Thừa khuông ở Hào từ chỉ là lời thí dụ mà thôi mà thâm ý cốt ở chữ vô thực.
Hễ việc trong thiên hạ, vẫn trước có thực thời sau mới có danh. Nếu chỉ có danh mà không có thực thời cái hư danh đó cũng là vất đì.
Kìa Thượng Lục ở thì Quy Muội mà không thành được đạo phu phụ, như thế là quy muội đã vô thực, tức là không danh bằng quy muội được.
Xem các Hào từ thảy có chữ quy muội mà Thượng Lục không có chữ quy muội thời đủ rõ.
55. QUẺ LÔI HỎA PHONG
Chấn trên; Ly dưới
Quẻ này là Quẻ Lôi Hỏa Phong. Li hạ cũng là Nội Li, Chấn thượng cũng là Ngoại Chấn. Chấn lôi, Li hỏa, nên tên quẻ đọc bằng Lôi Hỏa Phong.
TỰ QUÁI
Tự quái: Đắc kì sở quy giả, tất đại, cố thụ chi dĩ Phong, Phong giả đại dã.
序卦: 得其所歸者, 必大, 故受之以豐, 豐者大也.
Y sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Quy Muội, tiếp lấy quẻ Phong là vì cớ sao?
Trên đây là quẻ Quy Muội, ý sắp quẻ chỉ lấy nghĩa bằng chữ quy. Quy nghĩa là có chốn về nhóm, hễ vật gì có chốn quy kết, hay việc gì làm có kết quả, thảy gọi bằng đắc kì sở quy. Đã đắc kì sở quy, tất nhiên thịnh lớn. Vậy nên sau quẻ Quy Muội tiếp lấy quẻ Phong. Hữu sở quy thời được Phong; Phong nghĩa là thịnh, cũng có nghĩa là lớn. Không cần thủ nghĩa bằng chữ Muội, đó cũng là lệ biến hóa của Dịch lí.
Theo về thể quẻ, trên Chấn dưới Li. Chấn là động, Li là minh, lấy đức minh mà động, lại động mà hay minh, thảy là phương pháp làm cho thịnh đại, nên đặt tên quẻ bằng Phong.
SOÁN TỪ
Phong, hanh, vương cách chi, vật ưu, nghi nhật trung.
豐亨, 王假之, 勿憂宜, 日中.
Quẻ Phong này có tượng minh mà động, lấy đức minh sức động làm nên nghiệp thịnh đại, theo thì nghĩa ấy, chắc được hanh thông, nhưng duy có đạo vương già mới làm tới nơi (Chữ cách như nghĩa chữ chí; cách chi nghĩa là làm tới đó).
Hễ đã tới thì Phong, thịnh cực e có cơ suy, tượng như mặt trời lên tột cao, tất có lúc xế. Vậy nên, trong lúc thịnh đại, thường có lẽ đáng lấy làm lo, nhưng chỉ lo suông mà thôi cũng vô ích.
Nên Quái từ răn cho rằng: Gặp lấy thì Phong vẫn đáng mừng mà cũng đáng lo, nhưng chớ nên lo suông. Gặp thì tiết ấy chỉ nên hết sức trì dinh thủ thành, giữ làm sao mà thường thường được như mặt trời đứng ở giữa trời, quang minh xa soi lâu dài không nghỉ. Thế là hơn lo suông nhiều lắm.
PHỤ CHÚ:
Thời đại Phong hanh là một thời đại thịnh cực, chính là nhật đã trung rồi. Bây giờ làm cho thường thường được nhật trung là việc rất khó, khi nhật đã trung mà có lẽ nào nhật cứ trung mãi rư?
Nhưng thâm ý thánh nhân cốt trọng ở chữ trung; chữ nhật chẳng qua là thí dụ. Duy chữ trung mới là chân lí.
Lẽ trong thiên hạ từ nhất thân, nhất gia, nhất quốc cho đến thiên hạ, hễ đã đến lúc thịnh, đáng lo nhất là quá thịnh. Hễ gặp việc đắc ý, đáng lo nhất là quá đắc ý, nên gặp thì tiết ấy phải lo sao cho khỏi quá; giữ được khỏi quá tức là trung, chỉ một chữ trung là vừa đủ làm thuốc chữa bệnh quá thịnh, nhưng vì tượng quẻ có Nội Li nên thêm vào chữ nhật; Li là chữ Nhật, chữ nhật chỉ là bổ túc mà thôi, thâm ý của thánh nhân chỉ một chữ trung là đủ.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Phong đại dã, minh dĩ độnng, cố Phong. Vương cách chi, thượng đại dã. Vật ưu, nghi nhật trung, nghi chiếu thiên hạ dã. Nhật trung tắc trắc, nguyệt dinh tắc thực, thiên địa dinh hư, dữ thì tiêu tức, nhi huống ư nhân hồ, huống ư quỷ thần hồ.
彖曰: 豐大也, 明以動, 故豐. 王假之, 尚大也, 勿憂, 宜日中, 宜照天下也. 日中則昃, 月盈則
食, 天地盈虛與時消息, 而况於人乎? 而况於鬼神乎.
Soán viết: Phong đại dã, minh dĩ động, cố Phong.
Vào thì Phong là có nghĩa thịnh đại rồi, nhưng sở dĩ thịnh đại thời vì li minh mà chấn động. Lấy đức minh mà động ra làm việc, vì vậy nên được Phong.
Phụ chú: Năm chữ minh dĩ động, cố Phong ý nghĩa rất bao hàm đầy đủ; chữ minh phản đối với chữ ám, chữ động phản đối với chữ tịnh.
Chẳng minh mà động thời là động càn, minh mà nằm im thời minh cũng là minh chết.
Duy đã có minh làm thể mà lại có động làm dụng mới làm nên sự nghiệp phong đại, nên nói rằng Minh dĩ động, cố Phong.
Vương cách chi, thượng đại dã.
Sự nghiệp phong đại, tất duy vương giả mới làm nên.
Bởi vì có đức thịnh, lại cần có vị tôn, mới đến được thì tiết phong đại. Vương giả đến lúc đó thời những công việc sở kinh dinh rặt là việc rất lớn.
Vật ưu, nghi nhật trung, nghi chiếu thiên hạ dã.
Tuy nhiên, thì tiết đã đến lúc Phong ấy là triệu chứng suy vi đã ẩn núp ở lúc ấy, nên Quái từ nói rằng: Vật ưu, nghi nhật trung, nghĩa là phải lo cho được như mặt trời đương trung thường soi dọi khắp thiên hạ.
Chiếu thiên hạ cốt ở đức minh, đức minh không bao giờ hôn, cũng in như nhật trung không bao giờ xế. Vương giả ở thì Phong phải hết sức căng trì làm cho được thế.
Nhật trung tắc trắc, nguyệt dinh tắc thực, thiên hạ dinh hư, dữ thì tiêu tức, nhi huống ư nhân hồ, huống ư quỷ thần hồ.
Tiêu đã thích Quái từ, đây Soán Truyện lại nói rộng ra ý nghĩa ngoài quẻ. Nhân vì thì Phong là thì thực cực, hễ thịnh cực thời e suy tới nơi. Thử xem chân lí của trời đất, hễ mặt trời đến lúc trung thời thế nào cũng xế, mặt trăng đã đến lúc tròn đầy thời thế nào cũng khuyết lần (Trắc: mặt trời xế; thực: mặt trăng thiếu).
Dầu rất to lớn là Trái đất mà khí số tuần hoàn vẫn có khi đầy khi hụt, theo với thì mà tiêu mà tức. (Tiêu nghĩa là mòn đi; tức nghĩa là nở ra; dinh nghĩa là đầy tràn; hư nghĩa là hụt thiếu). Khí cơ tuần hoàn, thịnh suy đắp đổi, dầu trời đất cũng vậy mà phương chi người rư, phương chi ở đạo quỷ thần rư.
PHỤ CHÚ: Bốn chữ dinh, hư, tiêu, tức Soán Truyện chỉ nói ở quẻ Bác với quẻ Phong. Quẻ Bác thời đạo quân tử đương tiêu mà hư, nhưng cái cơ dinh với tức vẫn ở lúc đó nảy ra, nên thánh nhân muốn cho ta chớ thấy tiêu, hư mà chồn mỏi.
Quẻ Phong thời trong thiên hạ, đã đến lúc tức mà dinh, những triệu chứng tiêu với hư vẫn ngầm ở lúc ấy, nên thánh nhân muốn cho ta chớ thấy tức, dinh mà kiêu căng. Ở quẻ Bác có chữ dinh, chữ tức, ở quẻ Phong có chữ tiêu, chữ hư, chỉ nhân ở hai câu ấy mà gửi ý tùy thì thiết giáo, toàn bộ Dịch tất thảy như thế.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Lôi điện giai chí, Phong. Quân tử, dĩ chiết ngục trí hình.
象曰: 雷電皆至, 豐. 君子以折獄致刑.
Chấn là lôi, Li là điện, lôi điện đồng thì đến là tượng quẻ Phong.
Quân tử xem tượng ấy, lấy đức minh của Li mà soi xét vật tình, lấy tính động của Chấn mà thi hành bằng uy đoán, dụng đạo ấy mà làm việc hình ngục.
Đã có minh lại hay đoán thời hạ tình soi xét được thấu mà việc ngục cũng không trì trệ uy dai, chắc là chiết đoán được lời ngục mà chóng xong được việc hình. Đó là một việc rất lớn ở thì Phong.
PHỤ CHÚ: Tượng Truyện này chú trọng ở hai chủ uy minh. Uy mà không minh thời mắc lấy gian dối mà không chiết được ngục nên nỗi trong thiên hạ nhiều người bị oan; minh mà không uy thường hay cô tức mà không trì được hình nên nỗi trong nước nhiều ngục lưu trệ. Duy uy minh tinh dụng, in như lôi điện giai chí thời chiết ngục trí hình không khó gì.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
Sơ Cửu: Ngộ kì phối chủ, tuy tuần, vô cựu, vãng hữu thượng.
初九: 遇其配主, 雖旬無咎, 往有尚.
Ở vào thì Phong, muốn làm nên công nghiệp Phong, Sơ Cửu ở thể Li là sẵn có đức minh thượng ứng với Tứ, Tứ đầu hết thể Chấn là sẵn có tính động. Tứ với Sơ gặp nhau, chính là minh với động giúp nhau.
Vậy nên Sơ gọi Tứ bằng phối chủ, Tứ làm người phối chủ, phối hợp với Sơ, Sơ lại may mắn mà đụng gặp lấy Tứ, giúp nhau mà nên công dụng. Có đức minh của Sơ giúp cho Tứ, mà sức động của Tứ giúp cho Sơ mà đức minh của Sơ hữu dụng, nhờ nhau mà nên như thế. Tuy hai bên thảy dương cương, thế quân, lực địch, nhưng tương thành không tương phản, vẫn không tội lỗi gì.
Phối nghĩa là sánh nhau, tượng như vợ chồng phối hợp; tuần nghĩa là cân địch.
Sơ với Tứ thảy dương cương nên nói rằng tuần. Tuy vẫn cân địch nhau mà giúp đỡ lợi ích cho nhau nên Sơ đi lên theo Tứ, tất có công nghiệp đáng khen.
PHỤ CHÚ: Thông lệ ở các quẻ thời âm với dương, nhu với cương, mới là tương ứng. Duy ở quẻ Phong này thời cốt ở minh, động tương tư. Vậy nên, Sơ minh, Tứ động, giúp nhau mà thành công, thời lưỡng dương đồng đức lại là quý hóa lắm. Đó cũng là biến lệ trong Dịch, chỉ nên hoạt động không nên tử.
Tượng viết: Tuy tuần, vô cựu, quá tuần, tai dã.
象曰: 雖旬無咎, 過旬, 災也.
Tượng Truyện lại phát minh Hào từ nên nói rằng: Sơ, Tứ tuy cân địch nhau, nhưng vừa quân địch thời hay. Nếu có một phía quá hơn, tất nhiên có một phía thua, thành ra tranh thắng với nhau, e có tai vạ tới ngay (Tuần là cân với nhau). Đồng lực hợp tác thời việc gì cũng nên. Nếu có một bên cầu thắng, tất nhiên không chịu tương hạ thời làm việc gì cũng thất bại nên nói rằng: Tai.
2. Lục Nhị: Phong kì bậu, nhật trung kiến đẩu, vãng, đắc nghi tật, hữu phu phát nhược, cát.
六二: 豐其蔀, 日中見斗, 往得疑疾, 有孚發若, 吉.
Lục Nhị làm chủ cho Nội Li lại cư trung đắc chính, vẫn là một người có đức minh, nhưng vì kẻ chính ứng với mình là Lục Ngũ, Ngũ âm nhu bất chính, không đủ tài giúp Nhị. Ngũ lại có tính ám không sẵn lòng tin Nhị, hiển thần mà đụng phải ám chúa nên nỗi đức minh của mình tượng như mặt trời bị mây mù che bịt, nên Hào từ nói rằng: Phong kì bậu, nhật trung kiến đẩu (Bậu là cái đồ để mà che bịt, vì che bịt quá lớn nên giữa ban ngày mà lấp cả mặt trời, thấy sao Đẩu lù ra). Hoàn cảnh Nhị khốn nạn như thế, tuy mình vẫn minh mà không khác gì hôn; nếu đi lên theo Ngũ, thời Ngũ là người hôn ám, e thấy Nhị mà nghi ghét (Nghi nghĩa là ngờ; tật nghĩa là ghét).
Ở vào thì Phong mà gặp lấy ám chúa như thế thời Nhị tự xử nên thế nào? Chỉ duy nên chất chứa lòng chí thành giữ một lòng trung trinh, mong cảm phát được người trên minh, có lẽ tinh thành sở chí, kim thạch năng khai. Thế thời kết quả cũng được tốt (Hữu phu là chí thành của Cửu Nhị; phát nhược là khai phát được Ngũ).
PHỤ CHÚ: Hào từ này tượng như ông Chu Công giúp Thành Vương mà bị họa lưu ngôn của Quản Thái, ông Khổng Minh giúp Hậu Chúa mà bị họa sàm ngôn của Hoàng Hạo. Đó là Phong kì bậu, nhật trung kiến đẩu.
Nhưng hai người đó vì lấy chí thành cảm cách được nhân chúa, kết quả Thành Vương mất lòng nghi, Hậu chúa biết nhận lỗi mà sự nghiệp "Chu”, "Khổng" thảy được thỉ chung. Thế là chỉ lấy hai chữ "hữu phu" mà phát được cái mùng che lấp, đúng với phát nhược, cát của Hào từ này vậy.
Tượng viết: Hữu phu phát nhược, tín dĩ phát chí dã.
象曰: 有孚發若, 信以發志也.
Nhị có đức minh mà xử vào địa vị làm tôi. Ngũ ở vị tôn, nhưng chất Ngũ nhu ám nên lúc đầu không khỏi được nghi tật. Tuy nhiên, tinh thành Cửu Nhị, uất cực tắc thông, chỉ một niềm phu tin đó, chắc cảm cách được tâm chí của Ngũ. Có lẽ gì mà không được tốt rư?
3. Cửu Tam: Phong kì phái, nhật trung kiến muội, chiết kì hữu quăng, vô cựu.
九三: 豐其沛, 日中見沫, 折其右肱, 無咎.
Cửu Tam ở trên hết Nội Quái là ở trên hết thể minh, dương cương mà lại đắc chính, vẫn là một người hiển minh. Nếu gặp được bạn hiền, vua thánh, vẫn cũng có thể hữu vi, nhưng khốn nạn thay! Thượng Lục tuy chính ứng với mình, nhưng Thương là âm nhu, tài hèn chất ám, không giúp được gì cho Tam, mà lại ở trên Tam là Cửu Tứ, thế lực mạnh, càng che mắt Tam. Tam xử vào hoàn cảnh ấy dầu có tài năng mặc lòng mà bị bịt bùng quá nhiều lớp, in như trong mùng che quá kín nên giữa ban ngày hiện ra cảnh tương ban đêm, nên nói rằng: Phong kì phái, nhật trung kiến muội (Phái nghĩa là cái màu bịt; phong kì phái lại thậm hơn phong kì hậu; muội nghĩa là đám sao nhỏ).
Giữa ban ngày mà thấy đám sao nhỏ là tối tăm quá chừng. Hai câu ấy là hình dung thời thế của Cửu Tam, vì cảnh ngộ của Cửu Tam như thế thời dầu có muốn hành động mà không thể hành động được việc gì, chẳng khác gì người què mất cánh tay phải (Quăng là cánh tay; hữu quăng là cánh tay mặt, chỉ vào hào Thượng). Tam cậy Thượng làm cánh tay, Thượng quá hư hèn, thế là cánh tay Cửu Tam bị gãy.
Ôi thôi! Thời thế sử nhiên, cũng không biết trách lỗi vào ai.
Tượng viết: Phong kì phái, bất khả đại sự dã, chiết kì hữu quăng, chung bất khả dụng dã.
象曰: 豐其沛, 不可大事也, 折其有肱, 終不可用也.
Tam ứng với Thượng, Thượng âm nhu vô tài, lại ở cuối cùng thì Phong, không chút gì giúp đỡ cho Tam được, tay không khó thể chống trời nên không gánh nổi được việc lớn ở thì Phong. Tỉ như hữu quăng đã chiết thời Tam chỉ là tay độc chiết, còn dùng ra làm được việc gì.
4. Cửu Tứ: Phong kì bậu, nhật trung kiến đẩu, ngộ kì di chủ, cát.
九四: 豐其蔀, 日中見斗, 遇其夷主, 吉.
Cửu Tứ tuy bản chất dương cương mà lại ở gần hào Ngũ cũng là ở vị trên, vẫn có thể làm được sự nghiệp Phong, nhưng địa vị của Tứ là bất trung, bất chính mà lại gặp Ngũ là âm nhu hôn ám, trở lại che lấp, mất đức cương minh của mình, té ra đương buổi minh thịnh mà quay lại hắc ám. Vậy nên Hào từ cũng in như Lục Nhị, chỉ là cảnh tương tối tăm mà thôi.
Nhưng may cho Tứ ở dưới có Sơ Cửu, đồng đức tương ứng với mình, Sơ đã từng nhận Tứ làm phối chủ, bây giờ Tứ lại nhận Sơ làm di chủ mà giúp đỡ cho nhau, đồng lực hợp tác may có thành công.
Di nghĩa là bằng cân, ta thường gọi bằng vai vế. Tứ với Sơ vẫn là bạn dương cương với nhau nên gọi bằng di chủ.
Sơ gọi Tứ bằng phối chủ là kẻ dưới mà theo kẻ trên; Tứ gọi Sơ bằng di chủ là kẻ trên xuống theo kẻ dưới.
Tượng viết: Phong kì bậu, vị bất đáng dã, nhật trung kiến đẩu, u bất minh dã; ngộ kì di chủ, cát hành dã.
象曰: 豐其蔀, 位不當也, 日中見斗, 幽不明也; 遇其夷主, 吉行也.
Hào Cửu Tứ ở vào địa vị bất trung, bất chính nên nỗi bị che lấp. Huống gì Ngũ lại âm nhu, càng hôn ám hơn Tứ nữa. Một phía thời vị bất đáng, một phía thời u bất minh nên Hào từ nói rằng: Phong kì bậu, nhật trung kiến đẩu. Tuy nhiên, gặp được hào Sơ, Sơ có đức cương minh, lại đồng đức với Tứ, Tứ đi cầu Sơ là ngộ kì di chủ làm như thế còn được cát vậy.
PHỤ CHÚ: Lục Nhị, Cửu Tứ, Hào từ sở dĩ in nhau bởi vì hai hào ấy cảnh ngộ sơ xử với những điều trông thấy ở trước mắt mình một cách in nhau nên Hào từ cũng không cần khác lời nữa.
5. Lục Ngũ: Lai chương hữu khánh, dự, cát.
六五: 來章有慶譽, 吉.
Lục Ngũ bản chất vẫn âm nhu là một người hôn ám, ở vào thì Phong mà lại được cư tôn vị, e cậy thì, cậy thế mà tự thánh, tự thần, tất làm hoại mất sự nghiệp phong đại, nên thánh nhân răn rằng: Ngũ ơi, tài chất Ngũ vẫn nhu ám, e không giữ nổi cơ nghiệp Phong, nhưng người thiên hạ ở thì này, Sơ với Tam, Tứ thảy là người có tài dương cương mà Lục Ngũ lại có đức văn minh, trung chính, tất thảy là hạng người nhân tài chương mỹ. Nếu Ngũ biết hư tâm cầu hiền, quên mình dụng người, rước đến hết những hạng nhân tài ấy, giúp đỡ mọi việc cho mình thời sự nghiệp thì Phong càng ngày càng lên, nhân dân thảy được nhờ hạnh phúc mà tiếng của Ngũ càng vẻ vang, không gì tốt lành hơn nữa.
Chương nghĩa là người có tài tốt; lai nghĩa là hết lòng mời tới; dự nghĩa là tiếng khen.
Tượng viết: Lục Ngũ chi cát, hữu khánh dã.
象曰: 六五之吉, 有慶也.
Việc tốt của Lục Ngũ là vì hay lai chương mà được phúc khánh vậy.
6. Thượng Lục: Phong kì ốc, bậu kì gia, khuy kì hộ, huých kì vô nhân, tam tuế bất địch, hung.
上六: 豐其屋, 蔀其家, 闚其戶, 闃其無人, 三歲不覿, 凶.
Thượng Lục bản chất đã âm nhu mà địa vị sở xử lại ở cuối cùng thì Phong, tài rất hèn mà vị rất cao, và ở vào cuối cùng động thể là một người rất hay động; thịnh chi cực thời suy tới nơi, minh chi cực thời hôn tới nơi, chính là một hạng người kiêu căng táo bạo, mê mẩn tối tăm in như người làm nhà, nóc rất cao lớn mà buồng nhà lại thấp hẹp, cái nhà cao lớn ấy té ra bưng bịt chốn ở của mình. (Ốc là nóc nhà; gia là buồng mình ở).
Nóc nhà quá lớn mà bịt che cả buồng ở là hình dung ý mình che lấy mình nên nỗi không ai lui tới với mình, dòm vào trong cửa, lặng tanh không một người (Huých nghĩa là lạnh ngắt).
Cảnh tượng Thượng Lục tối tăm như thế, hãy còn u mê ám chướng, lâu đến ba năm mà không giác ngộ một tý gì (Địch nghĩa là thấy rõ). Người mà đã đến thế, không còn gì xấu hơn.
Tượng viết: Phong kì ốc, thiên tế tường dã, khuy kì hộ, huých kì vô nhân, tự tàng dã.
象曰: 豐其屋, 天際翔也, 闚其戶, 闃其無人, 自藏也.
Xử vào thì Phong đại chi cực mà lại ở địa vị rất cao, lấy một người nhu ám mà lại tự cao tự đại như thế; theo về bề ngoài trông vào in như liệng tới khoảng trời mà kì thực thời tự tuyệt với người, chỉ mình che bịt lấy mình mà thôi.
Thiên tế tường dã là hình dung địa vị cực cao; tự tàng dã là hình dung bịt bùng rất tối; tàng nghĩa là che bịt; tường nghĩa là bay liệng; thiên tế là cao tột trời.
PHỤ CHÚ: Tên quẻ đặt bằng Phong mà Soán từ với Hào từ, tượng xấu rất nhiều, lời răn đe cũng rất nhiều. Thế mới biết cơ tối thường núp ở lúc sáng, mầm họa thường sinh ở lúc phúc. Quẻ Phong là minh chi cực, Tạp quái có nói rằng: Phong là một thì rất nhiều sự cố. Người gặp ở thì ấy, nếu chốc phút không căng trì, mảy may không cẩn thận thời đã chắc đâu minh mà không phải ám, phúc mà không phải họa đó rư! Vả lại, người ở thì ấy, cần thứ nhất là phải đồng đức đồng tâm.
Sơ với Tứ là đồng một đức dương cương mà lại biết đồng tâm với nhau nên hào Sơ ngộ kì phối chủ; hào Tứ ngộ kì di chủ mà kết quả được hữu thượng và cát.
Hào Nhị, hào Ngũ là đồng một đức nhu trung mà lại hay đồng tâm nên Nhị thời hữu phu, Ngũ thời lai chương mà kết quả thời hai bên thảy được cát.
Duy Cửu Tam với Thượng Lục thời cương đụng lấy nhu, minh đụng lấy ám. Vì đức không đồng nhau hóa ra mỗi người mỗi bụng, kết quả Tam bị gãy tay mà Thượng thời bỏ nhà trống, hung đến như thế thời chi vì tội tại li tâm li đức mà thôi.
Ở về thì Phong mà tâm đức chẳng đồng còn tai họa như thế, huống gì gặp lúc truân chuyên khó khăn mà người trong thì đó chẳng biết đồng tâm, đồng đức với nhau, còn mong làm được việc gì nữa rư? Thánh nhân ở quẻ Phong, biến lệ cương, nhu tương ứng mà thay vào nghĩa cương, nhu đồng đức, mầu nhiệm thay! Tinh túy thay!
56. QUẺ HỎA SƠN LỮ
Ly trên, Cấn dưới
Quẻ này là quẻ Hỏa Sơn Lữ. Cấn hạ cũng là Nội Cấn, Li thượng cũng là Ngoại Li. Li hỏa, Cấn sơn, nên tên quẻ đọc bằng Hỏa Sơn Lữ.
TỰ QUÁI
Tự quái: Phong giả đại dã, cùng đại giả tất thất kì cư, cố thụ chi dĩ Lữ.
序卦: 豐者大也, 窮大者必失其所居, 故受之以旅.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Phong tiếp lấy quẻ Lữ là vì cớ sao?
Trên đây là quẻ Phong, Phong nghĩa là thịnh lớn, thịnh lớn đã cùng cực, tất đến nỗi mất chốn ở mà phải đi ở độ. Vậy nên sau quẻ Phong tiếp lấy quẻ Lữ. Lữ nghĩa là bỏ nhà mà đi ra ngoài làm khách.
Theo về thể quẻ, trên Li là hỏa, dưới Cấn là Sơn; sơn ở một chốn mà hỏa thời không nhất định ở chốn nào. Hỏa ở trên sơn chỉ là cách ở độ mà thôi, nên đặt tên bằng Lữ.
SOÁN TỪ
Lữ, tiểu hanh,; lữ trinh, cát.
旅小亨, 旅貞吉.
Theo về tượng quẻ, Cấn sơn thời chữ ở dưới, Li hỏa thời thột nhiên đỏ ở trên, chỉ là ở tạm trong một lúc mà thôi.
Sơn nhờ có hỏa mà được sáng tạm trong một lúc, chỉ là hanh thông chút đỉnh. Nếu lửa tắt thời núi vẫn tối đen, nên nói rằng: Lữ, tiểu hanh, nghĩa là, người đã đến lúc phải đi làm khách, có làm gì được việc lớn nữa đâu, nhưng còn mong cho người làm khách đó biết giữ lấy đạo trinh chính thời dầu không phải đất nước mình mà những người dung trữ mình không ai chán ngán, còn có thể tốt lành được.
PHỤ CHÚ: Lữ là một cảnh ngộ đặc biệt của loài người, lìa họ hàng thân thích, bỏ mồ mả nhà cửa đi ra làm một người lữ khách ở viễn phương, còn có lấy gì làm sung sướng đâu, nhưng cảnh đời thường có biến, việc người có cùng có thông, ở vào cảnh cùng biến mà vẫn có một đạo lí thông thường.
Tức như: Đức Khổng tuyệt lương ở Trần Thái, Mạnh Tử bất ngộ Tề, Lương, chẳng phải là thánh hiền cũng có lúc cơ lũ đó ru?
Nhưng đạo nghĩa ở giữa bản thân thời bao giờ cùng không thay đổi. Tuy không làm sự nghiệp lớn, nhưng mà chính nghĩa chính đạo, tới đâu cũng vẫn làm ơn cho người. Như thế là: Lữ trinh mà vẫn được cát. Nói tóm lại, lữ mà bất trinh như Trần Ích Tắc nước ta, đi ở độ đất nước Nguyên mà toan bán nước cầu vinh, kết quả, chốn thân ở nước ngoài mà nhà Trần không nhận anh là người tôn thất, chẳng phải lữ bất trinh thời trung hay sao.
Kìa ông Ky Tử ở đời nhà Thương, vì không chịu làm tôi với nhà Chu mà qua ở nước Triều Tiên, lấy văn tự Trung Quốc dạy cho người Triều Tiên, đặt ra giáo lịnh thập điều dạy cho người Triều Tiên, tới bây giờ người Triều Tiên còn nhận ông làm quốc tổ. Lại như ông Sĩ Nhiếp vì tránh loạn Tam Quốc mà sang nước ta, bắt đầu lấy Hán văn dạy cho người nước ta, trọn đời ở nước ta, bây giờ người nước ta còn gọi ông là Sĩ Vương Tiên. Như hai người ấy, chẳng phải lữ trinh mà cát hay sao?
Dịch lí là bao bọc tất thảy thiên đạo và nhân sự. Ở trong loài người năm châu bốn bể, giao thông trộn nhau thời Lữ cũng là một việc phải có, nhưng tất phải tiểu hanh mà giữ đạo chính thời thân người lữ đã hay mà người làm chủ cho lữ cũng cảm tình thân thiết. Đó là một đạo lí của người ở đời vậy.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Lữ, tiểu hanh, nhu đắc trung hồ ngoại, nhi thuận hồ cương, chỉ nhi lệ hồ minh, thị dĩ tiểu hanh, Lữ trinh cát dã. Lữ chi thì nghĩa đại hĩ tai.
彖曰: 旅小亨, 柔得中乎外而順乎剛, 止而麗乎明, 是以小亨, 旅貞吉也. 旅之時義大矣哉.
Soán viết: Lữ, tiều hanh, nhu đắc trung hồ ngoại, nhi thuận hồ cương, chỉ nhi lệ hồ minh, thị dĩ tiểu hanh, Lữ trinh cát dã. Đây chỉ nói riêng bằng Lục Ngũ, bởi vì Lữ là không phải quẻ tốt, người gặp vào cảnh ngộ đã phải ở đất khách quê người. Thế lực vẫn không ở giữa mình, vả sinh nhai chỉ là tác khách, quá ti thời mắc lấy nhục làm cao thời mắc lấy họa. Người ở vào cảnh ngộ ấy, cần nhất là một chữ minh nên Soán Truyện chỉ lấy riêng một hào Ngũ.
Ngũ ở giữa Ngoại Li, Li là thể minh, Ngũ làm chủ cho Li là minh chi cực nên biết lựa cơ chiều thế, tiếp vật đãi nhân, dùng một cách nhu hòa mà lại đắc trung đối với bề ngoài như thế, đụng gặp cương cường thời dùng bằng một cách hòa thuận, yên lặng mà dựa vào đức minh của mình. Lữ mà được như thế thời trong không đến nỗi thất kỉ, ngoài không đến nỗi thất thân, chân bèo cánh bọt mặc dầu mà mình chẳng mất danh giá. Vì thế mà được tiểu hanh, Lữ trinh cát.
Lữ chi thì nghĩa đại hĩ tai. Lữ là cảnh nghịch, lại là cảnh rất khó xử mà đạo lí ở thì Lữ lại khó khăn hơn mọi Thì, cương đã không xong mà quá nhu lại càng không được, ám vẫn vô dụng mà thái minh lại sợ mất lòng người, chẳng phải một bậc Thánh triết mà xử vào thì Lữ, tất khó đúng với nghĩa lí và hợp với cơ nghi, nên nói rằng: Nghĩa tùy Thì của thì Lữ lớn rồi vậy thay.
PHỤ CHÚ: Soán Truyện ở quẻ Lữ không nói chữ thì dụng mà chỉ nói chữ thì nghĩa, bởi vì người đã xử vào cảnh Lữ khốn, thiệt chẳng trông mong gì có tác dụng, chỉ lo cho khỏi trái nghĩa lí mà thôi, nên chỉ nói thì nghĩa. Kìa như quẻ Khảm, quẻ Khuê, còn có công dụng làm được nhiều, duy đến Lữ thời chữ nghĩa là vừa đủ. Lữ mà khỏi tránh nghĩa tức là hợp thời.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Sơn thượng hữu hỏa, Lữ. Quân tử dĩ minh thận dụng hình nhi bất lưu ngục.
象曰: 山上有火, 旅. 君子以明慎用刑 而不留獄.
Tượng Truyện ở đây, không lấy nghĩa chữ Lữ mà chỉ lấy bằng tượng quẻ Lữ.
Ở trên Cấn sơn có Li hỏa, tượng là trên núi có lửa rọì sáng, quân tử xem tượng ấy bắt chước làm việc hình luật, soi xét tình hình người, dùng bằng cách minh đoán, phán quyết tội phạm dùng bằng cách cẩn thận, có đức minh như hỏa mà lại mau chóng cũng như hỏa, gặp có việc ngục thời xử đoán tức khắc, không để phạm nhân lưu trệ trong ngục. Đó là bắt chước lấy tượng hỏa sơn đó vậy: Cẩn thận in như sơn chỉ, minh đoán in như hỏa quang.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Lục: Lữ tỏa tỏa, tư kì sở thủ tai.
初六: 旅瑣瑣, 斯其所取災.
Sơ Lục bản chất âm nhu mà lại ở dưới hết thì Lữ, chính là một hạng người nhu nhược ti hạ, gặp cùng đồ mà không biết tùy thì lựa thế. Đã ở vào cảnh Lữ mà còn tham lam bẩn thỉu, đối đãi với Lữ chủ, kể tẳn mẳn từ một ti một hào. Người Lữ mà tỏa tỏa như thế chỉ là tai họa vì mình tự thủ mà thôi. (Tỏa tỏa nghĩa là tẳn mẳn, tỉ mỉ).
Tượng viết: Lữ tỏa tỏa, chí cùng tai dã.
象曰: 旅瑣瑣, 志窮災也.
Người ở cảnh Lữ mà còn tỏa tỏa thủ tai là vì chí ý đã cùng bức, thành ra tiểu nhân cùng mà lạm vậy nên mắc lấy tai vậy.
PHỤ CHÚ: Kinh Thi có câu: Người đã tẩn mẳn nhỏ nhen vậy mà lại đến lúc cuối cùng vậy, kết quả chỉ là một anh lưu li vậy, chính đúng với hào này.
2. Lục Nhị, Lữ tức thứ, hoài kì tư, đắc đồng bộc, trinh.
六二: 旅即次, 懷其資, 得童僕貞.
Lục Nhị là một người tốt nhất trong thì Lữ. Hào Lục ở vị Nhị là có đức nhu thuận, vừa lại đắc chính đắc trung, vẫn là một người có nhân cách mà lại chính ứng ở trên có Lục Ngũ, văn minh đắc trung, vẫn là một người có tư cách làm thầy cho Nhị.
Ở trong thì Lữ Ngũ mà gặp được hoàn cảnh như thế nên được chốn trú nghỉ an lành (Tức nghĩa là tới; thứ là chốn trú nghỉ).
Khách đi đường mà đã tới chốn trú nghỉ là an thích đã xong, lại ôm giữ được tiền của, khỏi lo nỗi đói thiếu, ở trong lúc đất khách quê người. (Hoài nghĩa là chứa trữ; tư nghĩa là tiền của để làm lộ phí).
Ở đành an rồi, lữ phí sẵn rồi, lại may nữa được tên tớ theo mình đó cũng ngay thật dễ tin, khỏi lo về sự bị người lừa gạt.
Tượng viết: Đắc đồng bộc trinh, chung vô vưu dã.
象曰: 得童僕貞, 終無尤也. Người gặp thì Lữ mà may gặp được đồng bộc trung trinh với mình, tất kết quả không ai trách lỗi mình vậy.
PHỤ CHÚ: Hào từ này xem với việc Tấn Văn Công ở Tả Truyện thời rất đúng. Tấn Trùng Nhĩ là một người mất ngôi, bỏ nước chạy ra nước ngoài, lưu lạc vừa mười chín năm, thậm chí xin ăn với người cày ruộng, chịu nhục với đại phúc nước Tào mà chỉ vì có năm người đi theo hầu, tất thảy có đủ tài giúp việc nước, kết quả được trở về nước Tấn làm bá chư hầu. Thế mới biết, Hào từ tượng từ ở đây, không phải là không sự thực.
Hào từ nói ba câu mà Tượng Truyện chỉ chú trọng một câu "Đắc đồng bộc trinh", lại rất có ý nghĩa.
Dịch đến đây, thột nhớ đến chuyện vua Gia Long khi ngài bị Tây Sơn đuổi, chạy trốn lên Xiêm La. Trung thần là Nguyễn Huỳnh Đức bị vua Quang Trung bắt sống. Quang Trung muốn thu dụng Huỳnh Đức, hết sức dỗ dành, đêm cho vào ngủ chung một giường, nhưng Huỳnh Đức không đổi lòng, ngoài mặt vẫn phục thuận với Quang Trung mà ngày đêm vẫn tư tưởng Cố Chúa.
Một hôm, ngủ bên cạnh Quang Trung, thột nhiên nói mớ rằng: Giết giặc Huệ, giết giặc Huệ. Quang Trung biết được ý, sáng ngày mai hỏi Huỳnh Đức rằng: Ta hỏi thiệt ngươi, ta đối với ngươi rất tử tế, nhưng ý thật ngươi ra thế nào? Huỳnh Đức thưa thiệt rằng: Tôi vẫn cảm ơn Ngài, nhưng không thể nào khiến tôi quên được Chúa tôi, hễ bao giờ tôi biết được Chúa tôi ở đâu thời tôi đi ngay. Quang Trung vui lòng mà bảo rằng: Chúa anh bây giờ ở Mang Cốc, nay ta cho người dẫn đường đưa anh đi. Sáng ngày mai, vua Quang Trung nhóm hết các tướng bộ hạ, dọn tiệc tiễn biệt Nguyễn Huỳnh Đức, khiến người dẫn đường đưa Huỳnh Đức qua Xiêm. Huỳnh Đức đi đến Mang Cốc vào yết kiến vua Gia Long. Thoạt thấy nhau, ôm đầu gối vua Gia Long khóc nghẹn một hồi lâu, không nói được một lời. Lúc bấy giờ vua Xiêm thấy mà than rằng: Châu An Nam có tôi như thế, chẳng về được nước có lẽ gì? Vua Xiêm nhân đó mới xuất viện binh đưa Cao Hoàng về Gia Định, đó mới biết đắc "đồng bộc trinh" là việc rất tốt trong thì Lữ.
3. Cửu Tam: Lữ, phần kì thứ, táng kì đông bộc, trinh lệ.
九三: 旅焚其次, 喪其童僕, 貞厲.
Hào Cửu ở vị Tam là một người quá cương bất trung mà lại ở trên Nội Quái, địa vị sơ xử, lại là tớ không phải tớ, thầy không phải thầy, rặt trái với đạo lí ở thì Lữ. Lữ là cốt nhu thuận mà Tam lại quá cương, Lữ là cốt ý khiêm ty mà Tam lại tự cao nên nỗi Lữ chủ phải đuổi Tam, té ra mình tự đốt lữ quán của mình. Chẳng những thế mà thôi, vì Tam cương bạo nên thầy tớ Tam cũng bỏ Tam, té ra mất cả thầy tớ. Cách cử động của Tam như thế, nếu tâm sự của Tam có chính chăng nữa, kết quả cũng nguy mà thôi.
Phần kì thứ là mất lòng kẻ trên; táng kì đồng bộc là mất lòng kẻ dưới. Ở vào cảnh Lữ mà mất lòng người như thế, tuy xuất thân vẫn chính mà trái thì nghịch thế không nguy được hay sao?
Tượng viết: Lữ, phần kì thứ, diệc dĩ thương hĩ; dĩ Lữ dữ hạ, kì nghĩa táng dã.
象曰: 旅焚其次, 亦已傷矣; 以旅與下, 其義喪也.
Lữ mà đến nỗi phần kì thứ, cũng đã đau đớn lắm rồi. Ở vào thì Lữ mà đối đãi với người dưới thất cách như Cửu Tam, theo về nghĩa thì Lữ, tất nhiên phải mất thầy tớ đó vậy.
4. Cửu Tứ: Lữ vu xử, đắc kì tư phủ, ngã tâm bất khoái.
九四: 旅于處, 淂其資斧, 我心不快.
Cửu Tứ tuy dương cương bất đắc trung, nhưng ở vào vị nhu, lại ở dưới hết Ngoại Quái, thế là thể cương mà biết dụng nhu, thượng thể mà hay tự hạ, chính là người thiện xử ở thì Lữ, tuy không được "tức thứ" như Lục Nhị, nhưng cũng được chốn ở tạm mà lại sẵn những đồ tiền của vật liệu, vừa đủ phòng bị trong hồi lữ thứ (Tư nghĩa là tiền của để làm lữ phí; phủ là đồ võ trang để hộ thân, nghĩa đen thời phủ nghĩa là búa, nhưng ở đây chỉ nói bằng đồ hộ thân). Có chốn ở, lại được tư phủ, ở thì Lữ như thế, vẫn không khổ gì, nhưng vì ở trên không người giúp đỡ cho mình vì trên là Tứ, Ngũ âm nhu vô lực, mà ở dưới cũng không người gánh việc với mình, vì Sơ là chính ứng cũng âm nhu, âm nhu ty hạ; một mình đất khách, mình tự vệ mình nên trong lòng không lấy gì làm vui vẻ.
Tượng viết: Lữ vu xử, vị đắc vị dã, đắc kì tư phủ, tâm vị khoái dã.
象曰: 旅于處, 未得位也, 得其資斧, 心未快也.
Người lữ hành mà mục đích cốt tại đi mà bây giờ chỉ phải tạm ở là vì địa vị của Tứ còn chưa đáng đó vậy. Địa vị hãy còn chưa được thời tuy đắc tư phủ mặc lòng mà mục đích vẫn chưa đạt nên trong lòng không lấy gì làm sướng.
5. Lục Ngũ: Thiệc trĩ, nhất thỉ vong, chung dĩ dự mệnh.
六五: 射雉, 一矢亡, 終以譽命.
Theo thường lệ mỗi quẻ hào Ngũ là vị quốc quân nhưng vì ở vào thì Lữ nếu quốc quân mà cũng làm lữ khách té ra ông vua mất nước, nên hào này không lấy bằng nghĩa quốc quân mà chỉ lấy nghĩa lữ nhân. Lục Ngũ có đức văn minh nhu thuận mà lại xử được vị trung: Minh thời hiểu được nhân tình, nhu thời hợp với thì nghĩa, đắc trung thời đối đãi với người trên, kẻ dưới thảy được bằng lòng.
Xử vào cảnh Lữ mà được hay như thế là một người khôn khéo rất mực, chắc cử động đúng lẽ, trên kính dưới yêu, tuy tổn phí trong buổi Lữ ít nhiều, nhưng giá trị văn minh kết quả ở giữa mình được, tượng như bắn trúng con chim trĩ, tuy có hao một mũi tên mà cuối cùng đã được tiếng khen, lại được phúc lộc.
Tri là con chim có văn thái là một vật văn minh. Bắn được chim trĩ nghĩa là chuốc được lị ích bằng văn minh. Nhất thỉ là một mũi tên, mất một mũi tên, ví bằng hao tổn chút đỉnh; dự là tiếng khen; mệnh là phúc lộc. Kết quả được tiếng khen với phúc lộc là vi có đạo nhu trung, có đức văn minh, chính là một người rất cao quý ở thì Lữ.
Tượng viết: Chung dĩ dự mệnh, thượng đãi dã.
象曰: 終以譽命, 上逮也.
Ở trên Lục Ngũ, còn có Thượng Cửu, thời Lục Ngũ chưa phải là vị trí cao, nhưng dự mệnh đã tóm vào mình thời cũng chẳng bao lâu cũng tấn lên đến ngôi tột mực.
6. Thượng Cửu: Điểu phần kì sào, lữ nhân, tiên tiếu, hậu hào đào, táng ngưu vu dị, hung.
上九: 鳥焚其巢, 旅人先笑, 後號眺, 喪牛于易, 凶.
Hễ người ăn ở đậu, không lẽ gì mà ở trên hết người ta được. Nay Thượng lại ở vào vị trên hết người, Lữ là nghịch cảnh nên xử bằng cách nhu thuận là phải, nhưng Thượng tính chất quá cương, vị mình xử cao, đã trái mắt người mà tính mình cương lại mất lòng người, tất nhiên ở vào đâu cũng phải trúc đổ, chẳng khác gì chim bị cháy tổ.
Người lữ hành cốt dựa vào địa chủ, cũng như chim đậu cây cốt nhờ ở tổ, bây giờ điểu đã phần kì sào nghĩa là bị địa chủ đuổi mình. Cách hành động của một người lữ hành mà như Thượng Cửu này, tất nhiên lúc đầu thời hớn hở mà ra dáng cười xòa, sau lại buồn rầu mà nghe tiếng kêu khóc. Thượng Cửu sở dĩ kết quả khốn nạn như thế là vì sao?
Bởi vì người ở vào cảnh Lữ, chỉ cốt thuận với đạo Lữ, mới được đầu đi đuôi lọt mà họa may tốt lành chăng. Bây giờ Thượng Cửu kiêu ngạo khinh táo, bỏ mất tính nhu thuận bằng một cách khinh dị, mắc hung họa là đáng rồi, nên Hào từ nói: Táng ngưu vu dị, hung (Ngưu là giống rất nhu thuận, mất trâu là ví dụ bằng mất đức thuận).
Tượng viết: Dĩ Lữ tại thượng, kì nghĩa phần dã, táng ngưu vu dị, chung mạc chi văn dã.
象曰: 以旅在上, 其義焚也; 喪牛于易, 終莫之聞也.
Lấy một người lữ khách mà ở ngôi trên hết người, theo như thì nghĩa Lữ tất đến nỗi chim cháy tổ vậy.
Táng ngưu vu dị là dùng một cách dung dị láu táu mà bỏ mất đức thuận ở thì Lữ, người ngu ám đến thế, tất không bao giờ biết hối ngộ vậy.
Chung mạc chi văn dã nghĩa là dầu ai bày dạy cũng chẳng nghe.
PHỤ CHÚ: Đọc suốt Quái từ, Hào từ quẻ Lữ mà phát sinh một mối cảm tưởng. Xử cảnh rất khốn nạn, không gì bằng Lữ, thiệp thế rất khó khăn cũng không gì bằng Lữ. Tạp quái nói rằng: Lữ là ít người thân yêu là đường cùng khốn của người vậy.
Lữ nghĩa là ở gửi, địa vị đã là chấn động. Lữ là khách đi đường, tình hình lại là cánh chắp. Đối với ngoài mà thái ti thời đến nỗi thủ nhục, tự thị mình mà thái cao thời đến nỗi mang vạ.
Thái ti như Sơ Lục nên nỗi tỏa tỏa mà thủ tai, thái cao như Thượng Cửu nên nỗi phần sào mà táng ngưu. Cao hơn ở Nội Quái như Cửu Tam mà mắc tội quá cương đến nỗi phần thứ táng bộc. Tuy lên Ngoại Quái như Cửu Tứ nhưng vì không ứng viện nên dầu có đắc tư phủ mà tâm bất khoái.
Ở thì Lữ khó trọn vẹn như thế thời chúng ta nên thế nào? Nên xem ở Hào từ Nhị với Ngũ, hai hào ấy thảy đắc trung và nhu thuận.
Vì có đức trung nên tự xử trong mình bất cao cũng bất ti, vì có tính nhu thuận nên ứng phó với hoàn cảnh không kiêu cũng không lẫn. Cách xử thì Lữ của Cửu Nhị, Ngũ là như thế nên Lục Nhị thời "tức thứ hoài tư" mà lại "đắc đồng bộc, trinh", Lục Ngũ thời được dự mệnh ở lúc chung. Ở vào cảnh ngộ chân đăng cánh chắp mà muốn cho ba vuông bảy tròn, thiệt không gì hơn chữ trung với chữ nhu nữa vậy.
Lại một ý nữa, toàn sáu hào không một chữ cát, chữ hanh nào cả là ý đặc biệt trong Dịch.
Chúng ta phải biết, dở sinh gặp hồi đen rủi, đứng vào bước lưu li, gửi thân ở đất quê người, dựa bóng vào chân núi khách, may khỏi tai họa là hạnh phúc đã lớn rồi. Vậy nên trung chính như Lục Nhị, văn minh nhu trung như Lục Ngũ mà Hào từ không cho chữ cát, hanh.
Huống gì quá cương bất trung như Cửu Tam, Thượng Cửu nữa rư? Vậy nên người ở vào thì Lữ nên mang chặt lấy hai chữ nhu, trung làm bùa hộ thân.
Tuy nhiên, theo về Dịch lí cùng thông đắp đổi, họa phúc cặp kè, có người nào mà Lữ mãi rư? Có Lữ nào mà khôn mãi rư? Nên ở đầu Quái từ có chữ "tiểu hanh", chữ "trinh cát", nhưng hanh chỉ tiểu mà thôi, cát lại phải có trinh mới được; đạo lí ở thì Lữ thiệt không sót một tí gì.
57. QUẺ BÁT THUẦN TỐN
Tốn trên; Tốn dưới
Quẻ này là quẻ Bát Thuần Tốn. Tốn hạ cũng là Nội Tốn, Tốn thượng cũng là Ngoại Tốn. Trong ngoài trên dưới thảy Tốn, nên tên quẻ đọc bằng Bát Thuần Tốn.
TỰ QUÁI
Tự quái: Lữ nhi vô sở dụng, cố thụ chi dĩ Tốn, Tốn giả nhập dã.
序卦: 旅而無所用, 故受之以巽, 巽者入也.
Ý sắp đặt thú tự quẻ. Sau quẻ Lữ tiếp lấy quẻ Tốn là vì cớ sao?
Trên đây là quẻ Lữ, Lữ là khách ở độ, trong lúc ở độ thường sợ không chốn dung mình tất phải dùng bằng cách Tốn thuận, có Tốn thuận mới nhập được người. Vậy nên sau quẻ Lữ tiếp lấy quẻ Tốn.
Tốn nghĩa là thuận, lại nghĩa là nhập là vào. Do Tốn thuận mà vào, chính là phương pháp trong lúc Lữ. Theo về thể quẻ, nhị dương ở trên, chế phục được nhất âm khiến cho nhất âm phải thuận tòng với nhị dương, nên đặt tên quẻ bằng Tốn.
SOÁN TỪ Tốn, tiểu hanh, lị hữu du vãng, lị kiến đại nhân.
巽小亨, 利有攸往, 利見大人.
Theo về đức quẻ, Tốn tính chất nhu thuận, nhất âm chịu phục tòng nhị dương, tượng là tiểu nhân phục tòng quân tử.
Tiểu nhân mà biết như thế thời có lẽ hanh thông được, nhưng vì âm nhu dụng sự, không được hanh thông cho lớn, chỉ tiểu hanh mà thôi, vả cần phải có việc tiến hành nên kén chọn bậc đại nhân mà hết lòng tín ngưỡng vào người ấy. Rằng: Lị hữu du vãng nghĩa là không phải ngồi an mà được tiểu hanh. Rằng: Lị kiến đại nhân nghĩa là không phải trung nhân, tiểu nhân mà làm nên hanh.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Trùng tốn dĩ thân mệnh, cương tốn hồ trung chính, nhi chí hành, nhu giai thuận hồ cương, thị dĩ tiểu hanh. Lị hữu du vãng, lị kiến đại nhân.
彖曰: 重巽以申命, 剛巽乎中正而志行, 柔皆順乎剛, 是以小亨, 利有攸往, 利見大人.
Soán viết: Trùng tốn dĩ thân mệnh.
Quẻ này trên dưới thảy Tốn, tượng là kẻ trên lấy đạo trung chính mà phát mệnh lệnh, kẻ dưới được mệnh lệnh mà thuận tòng kẻ trên, lấy vào tượng trùng Tốn mà cẩn thận kỹ càng, xuất phát mệnh lệnh (Trên một lần Tốn, dưới một lần Tốn nên gọi bằng Trùng Tốn; thân mệnh là bắt chước bằng cách Trùng Tốn, phát mệnh lệnh một lần, rồi lại một lần nữa, đinh ninh phản phúc gọi bằng thân, chữ thân cũng nghĩa như chữ trung).
Cương tốn hồ trung chính, nhi chí hành, nhu giai thuận hồ cương, thị dĩ tiểu hanh. Lị hữu du vãng, lị kiến đại nhân.
Đây là lấy hào Nhị, hào Ngũ trong quẻ mà thích lời quẻ. Tốn vẫn là thuận, nhưng há phải một mực thuận đâu! Tất phải dương cương như hào Ngũ, hào Nhị, thuận bằng đạo trung chính thì chí mới phát triển được.
Hai hào âm nhu như Sơ với Tứ tất thảy thuận tòng với đức dương cương (Cương chỉ vào Nhị, Ngũ, nhu chỉ vào Sơ, Tứ).
Vì tài quẻ như thế nên được tiểu hanh mà lị hữu du vãng và lị kiến đại nhân. Đại nhân chỉ vào Cửu Ngũ.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Tùy phong, Tốn. Quân tử, dĩ thân mệnh hành sự.
象曰: 隨風, 巽. 君子以申命行事.
Tốn có tượng là gió; trên Tốn, dưới Tốn là tượng là hai luồng gió tiếp tục theo nhau (Tùy nghĩa là tiếp nhau).
Quân tử xem tượng ấy thời tiếp tục xuất phát mệnh lệnh với thì hành chính sự.
Tốn phong mệnh lệnh của trời, Thân mệnh là đức gió của quân tử. Thiên hạ phục tòng mệnh lệnh cũng in như vạn vật phục tòng gió trời. Vậy nên bắt chước Tốn mà thân mệnh, nhưng sau khi thân mệnh, tất phải hành sự, hễ đã phát mệnh lệnh gì, tất phải làm chính sự ấy, để cho tỏ mệnh lệnh là tin thật.
Như thế thời trên thuận đạo mà dưới thuận tòng, chính là cách Tốn của quân tử.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Lục: Tấn thối, lị võ nhân chi trinh.
初六: 進退, 利武人之貞.
Nguyên quẻ Tốn gốc là quẻ Càn. Vì hào Sơ thay vào, nhất dương hóa làm nhất âm, mới thành được Tốn, nên hào Sơ là Tốn chi chủ, âm nhu ở dưới hết quẻ mà lại làm chủ cho Tốn là một hạng người tốn thái quá nên ý chí thành ra uy khiếp, tiến mà không dám tiến, thối mà không dám thối, hồ nghi do dự, không thể hữu vi được việc gì.
Tuy nhiên, quá nhu vẫn không phải tốt, nhưng mà bổ trợ cho người quá cương thời lại lấy nhu mà chế cho cương, cũng có lẽ hay, nên Hào từ nói rằng: Lợi võ nhân chi trinh.
Nghĩa là, ti tốn như Sơ Lục này, chỉ duy dụng vào một hạng người võ nhân, thêm vào chí khí cương trinh. Thế thời chữa được bệnh quá nhu mà cũng bớt được bệnh quá cương. Thế mới có lị ích mà thôi.
Tượng viết: Tấn thối, chí nghi dã, lị võ nhân chi trinh, chí trì dã.
象曰: 進退, 志疑也; 利武人之貞, 志治也.
Sơ Lục mà tấn thối không quả quyết là vì ý chí đa nghi vậy. Nếu biết dùng bằng một cách cương quyết như võ nhân chi trinh thời chí khí mới tự lập nổi. Trước kia chí nghi mà bây giờ hóa ra chí trì (Chữ trì nghĩa là chữa được bệnh nghi hoặc mà ý chí chẳng loạn đó vậy).
2. Cửu Nhị: Tốn tại sàng hạ, dụng sử vu phân nhược, cát, vô cựu.
九二: 巽在床下, 用史巫紛若, 吉, 无咎
Hào dương mà ở vào vị âm, lại ở vào thì Tốn nên cử động một cách quá ti, tượng như người ti tốn mà đến nỗi nép dưới giường. Nếu theo về thì khác, vẫn không lấy gì làm tốt, nhưng ở về thì Tốn thời ti tốn cũng hợp với thì nghĩa. Huống gì bản thân Nhị vẫn là dương cương đắc trung là một người có nhân cách. Tuy vì đối phó với hoàn cảnh mà quá chừng ti tốn, nhưng không phải tà siểm, chỉ là một hạng người trung tín chí thành, có thể đem lòng thành cảm động được người. Tượng như nhà tế tự vì cầu thần quá thành thiết mà đụng đến quan sử thầy vu làm bằng một cách phân nhược (Sử là chức quan coi về việc tế; vu là chức quan coi về việc nhương trừ tai họa; phân nghĩa là rối ren).
Cầu thần mà phân phiền như thế, chính tỏ rõ được ý chí thành, nên thí dụ bằng Cửu Nhị chí thành cảm nhận mà không phải ra cách siểm ngụy, như thế thời được cát mà không tội lỗi gì.
PHỤ CHÚ: Toàn văn hào này chỉ nói thí dụ, Tốn tại sàng hạ thí dụ bằng cách quá tốn; đó là thủ đoạn của Cửu Nhị ở thì Tốn.
Sách Lão Tử có câu: Cách người ở đời, rù rò vậy, ý như mùa đông đi trên giá, ngại ngùng vậy, như hình sợ láng giềng tứ bề.
Lại có câu: Biết cách làm trống nhưng chỉ giữ cách làm mới, để làm cái hang sâu cho thiên hạ sụp vào.
Tốn tại sàng hạ, chính là thủ đoạn của Lão Tử; sàng hạ nghĩa là dưới giường nằm người ta.
Câu: Dụng sử vu phân nhược là thí dụ bằng chí thành cầu người. Đó là hình dung tinh thần của Cửu Nhị. Thầy Hàn Xương Lê bị đày ở Triều Châu, đi đến núi Hành Sơn, mây tuyết lấp cửa núi, không thấy đường đi, thầy thành tâm mật đảo, bỗng chốc mây tan, tuyết vữa. Triều Châu thường có tai vạ cá sấu, nhân vật bị hại rất nhiều, dân Triều Châu lúc ấy còn quá dã man, nó bảo sáu là thần, không dám động đến, thầy sức dân phu sắm cung tên, sẽ bắn nó. Khi toan đánh cá sấu, trước làm bài hịch văn gieo xuống sông, hẹn cho bầy cá sấu, nếu phải là thần thời trong ba ngày phải đi ra bể hết, nếu không thế thời quan thái thú phải giết sạch. Sau hai ngày, thình lình giữa các mặt sông, gió sấm dữ dội, bao nhiêu cá sấu theo gió triều lui ra bể hết. Từ ấy, dân Triều Châu mất hẳn họa ngạc ngư. Bấy giờ Đường sử có chép bài văn Khu Ngạc Ngư của thầy. Dụng sử vu phân nhược, cát in như chuyện ấy. Chúng ta học Dịch chớ nhận lầm chính văn hào Nhị là sự thiệt.
Tượng viết: Phân nhược chi cát, đắc trung dã.
象曰: 紛若之吉, 得中也.
Cửu Nhị chỉ lấy thành ý mà cảm động được thần minh, tượng như dụng sử vu bằng phân nhược mà kết quả được cát là vì Nhị có đức đắc trung, tuy tI tốn mà không phải quá độ vậy.
3. Cửu Tam: Tần Tốn, lẫn.
九三: 頻巽, 吝.
Ở về thì Tốn nhưng Tốn cũng cốt cho đắc trung. Cửu Tam trùng cương bất trung mà địa vị lại ở trên hết Nội Quái, vẫn là hạng người không làm xong Tốn, khi đã đụng lấy thất bại thời lại tốn một cách quá phiền, tốn đi, tốn lại, tốn rày, tốn mai, tốn mà không phải tự trị không ngần nghĩ ra, đụng đâu cũng tốn, càng tốn càng khiến người sinh chán, thiệt đáng xấu thẹn vậy, nên Hào từ nói rằng: Tần Tốn lẫn.
Sách Luận Ngữ có câu: Cung kính mà vừa gần với lẽ phải thời xa tránh được việc xấu thẹn. Tần tốn như Cửu Tam là cung mà chẳng cận ở lễ, mắc phải sỉ nhục là đáng rồi.
Tượng viết: Tần Tốn chi lẫn, chí cùng dã.
象曰: 頻巽之吝, 志窮也.
Tài chất Cửu Tam vẫn không biết đạo Tốn, chí Tam vẫn là cương táo, nhưng vì thất bại luôn luôn mà cuối cùng phải làm bộ ti tốn luôn, trước kiêu ngạo mà sau ti tốn, đó là ý chí Tam đến lúc cùng rồi, nên mắc lấy nhục bằng tần Tốn.
4. Lục Tứ: Hối vong, điền hoạch tam phẩm.
六四: 悔亡, 田獲三品.
Lục Tứ tài chất âm nhu, dưới lại không ngườì ứng viện. Người ở trên dưới mình rặt là phường dương cương, đáng lẽ phải có việc hối, nhưng may vì Tứ vẫn âm nhu mà lạì đắc chính, ở thể trên mà hay tự ti nên được hối vong, vả lại trên yêu dưới kính, chẳng những hối vong mà thôi, vả lại những việc công thưởng cũng có phần đến mình, tượng như theo quân đội đi săn mà được chia công cho mình có ba thức. Điền là lệ đi săn của nhà nước, lệ đời xưa đi săn về được đồ gì chia ra làm ba thức, mỗi một thức là một phẩm, một thức làm đồ tế, một thức đãi tân khách, một thức giao cho nhà bếp; chia phần mà đủ cả ba thức là hạng có công khá lớn. Hào từ như thế là khen cho Tứ được chính đạo của thì Tốn mà kết quả thành công nên nói thí dụ bằng điền hoạch tam phẩm.
Tượng viết: Điền hoạch tam phẩm, hữu công dã.
象曰: 田獲三品, 有功也.
Lục Tứ vì tốn thuận mà đắc chính nên Tam, Ngũ, hai dương thảy bằng lòng kết quả thời hữu công mà phần thưởng chiếm được nhiều, nên nói rằng: Điền hoạch tam phẩm.
5.Cửu Ngũ: Trinh cảt, hối vong, vô bất lị. Vô sơ hữu chung, tiên Canh tam nhật, hậu Canh tam nhật, cát.
九五: 貞吉, 悔亡, 無不利, 無初有終, 先庚三日, 后庚三日, 吉.
Hào Cửu ở vị Ngũ làm chủ cho thì Tốn, cơ quan xuất phát mệnh lệnh, chính giữa tay Ngũ mà ra làm một vị chủ xuất lệnh ở thì Tốn, há có lẽ chỉ nhu tốn mà làm nổi công việc nguyên thủ rư. Duy vì Ngũ cương kiện, trung chính, tuy ở thì Tốn mà không phải một mực Tốn, Tốn mà đắc chính, Tốn mà đắc trung, tất nhiên được trinh mà cát, tuy ở thì Tốn e không khỏi hối, nhưng kết quả thời hối vong mà vô bất lị.
Lúc đầu vì có hối là Sơ, vẫn không hay gì, nhưng cuối cùng hối đã vong rồi mà lại trinh cát. Thế là vô sơ mà hữu chung. Hào từ bốn câu như trên đây, thiệt là tốt nhất trong thì Tốn, nhưng sở dĩ được tốt, há phải dễ dàng đâu. Cứ lẽ, tất phải có quy mô cho hữu thỉ hữu chung, có kế hoạch cho đúng kinh đúng quyền mới mong được cát mà lợi, nên Hào từ lại mượn tên số thập can mà hình dung cho minh bạch, nguyên trong số thập can: Giáp, Ất, Bính là đoạn đầu; Tân, Nhâm, Quý là đoạn sau; Đinh, Mậu, Kỉ là đoạn chính giữa là thập can chi trung, đến chữ Canh là quá trung.
Hễ việc đã quá trung, tất phải thay đổi nên chữ Canh có nghĩa như chữ Canh là đổi, cũng học là biến canh.
Xuất mệnh lệnh ở thì Tốn, lúc bắt đầu đã hữu hối, tất phải biến canh, nhưng trong lúc biến canh, tất phải ở trước khi chưa canh ba ngày mà đinh ninh cần nhắc cho kĩ càng. Lại ở sau khi đã canh ba ngày mà so đọ khảo nghiệm cho chu mật. Làm việc biến canh mà công phu chu đáo được như thế, vậy nên được cát.
Hào từ sở dĩ mượn tên thập can mà thí dụ bằng tiên Canh tam nhật, hậu Canh tam nhật (Chữ Canh thông với chữ canh nghĩa là thay đổi). Tiên Canh tam nhật, tức là ngày Đinh; Đinh, có nghĩa là đinh ninh. Trước khi biến Canh mà Đinh ninh là cẩn thận ở lúc đầu. Hậu Canh tam nhật là ngày Quý; Quý, có nghĩa là quỵ đạc. Sau lúc biến Canh mà quỵ đạc là đo lường kĩ lưỡng đến lúc sau.
Nói tóm lại, Hào từ Cửu Ngũ cũng tượng như Quái từ quẻ Cổ. Tổng chi là bắt đầu làm việc Canh cách phải có kế hoạch thời cuối việc mới có thành công, khác nhau chỉ chữ Giáp với chữ Canh. Giáp là tính toan ở đầu việc, đề phòng trước sự cổ hoại; Canh là biến canh ở đoạn quá giữa việc, để gây nghiệp duy tân. Tham khảo cả hai bên thời biết được tác dụng của Dịch lí, rất tinh tường và chu đáo.
Tượng viết: Cửu Ngũ chi cát, vị chinh trung dã.
象曰: 九五之吉, 位正中也.
Cửu Ngũ sở dĩ được cát là vì địa vị sở xử đúng vào vừa chính vừa trung nên ở vào thì Tốn, không gì lầm lỗi vậy.
6. Thượng Cửu: Tốn tại sàng hạ, táng kì tư phủ, trinh, hung.
上九: 巽在床下, 喪其資斧, 貞凶.
Thượng Cửu ở cuối cùng quẻ Tốn là Tốn chi cực, tượng như ti tôn mà nấp ở dưới giường. Vì thế mà bản năng của mình là dương cương cũng đến nỗi mất ráo. Tư phủ là thí dụ bằng đức dương cương. Đã bỏ hết đức dương cương còn gì mong được tốt nữa.
Nhưng nếu quá nhi năng cải, còn có lẽ hay. Thượng này lại không được như thế, cố giữ lấy thói xấu của mình, ti tốn càng quá thêm thời tai họa càng nhiều thêm, thiệt là trinh hung mà thôi vậy.
Chữ trinh ở đây chỉ học nghĩa trinh là bền giữ, khác với chữ trinh ở mọí nơi, xem ở Tượng Truyện thời hiểu.
Tượng viết: Tốn tại sàng hạ, thượng cùng dã; táng kì tư phủ, chính hồ hung dã.
象曰: 巽在床下, 上窮也; 喪其資斧, 正乎凶也.
Tốn tại sàng hạ, Cửu Nhị cũng có thí dụ như thế, nhưng cớ sao Cửu Nhị thời cát mà Thượng Cửu thời hung? Bởi vì Cửu Nhị ở hạ thể mà đắc trung, tuy quá ư ti tôn mặc lòng nhưng vừa đúng với nghĩa lí nên tốn tại sàng hạ mà vẫn được cát. Còn như Thượng Cửu thời địa vị ở trên hết Tốn là Tốn đã cùng cực rồi. Đã cùng cực rồi mà không biết biến, còn làm một cách quá ti nên tốn tại sàng hạ mà mắc lấy xấu.
Tượng Truyện sợ rằng người ta nhận lầm chữ trinh ở Hào từ nên lại thích cho rõ rằng: Thượng này có tài dương cương đủ làm tư phủ cho mình mà vì nết ti siểm nên nỗi mất trớt tư phủ. Như thế, còn bảo được chính nữa rư, chỉ là một cách xấu đó vậy.
Tư phủ là đồ dùng để hộ thân, nghĩa đã thích ở trên quẻ Lữ. Chính hồ là lời nghi để cho thấy được chữ trinh trên Hào từ, chẳng phải chữ trinh là chính. Hung dã là lời đoán quyết nghĩa là chẳng phải chính, chỉ là hung mà thôi.
58. QUẺ BÁT THUẦN ĐOÁI
Đoái trên; Đoái dưới
Quẻ này là quẻ Bát Thuần Đoái. Đoái hạ cũng là Nội Đoái, Đoái thượng cũng là Ngoại Đoái. Trên dưới trong ngoài thảy Đoái, nên tên quẻ đọc bằng Bát Thuần Đoái.
TỰ QUÁI
Tự quái: Tốn giả nhập dã, nhập nhi hậu duyệt chi, cố thụ chi dĩ Đoái, Đoái giả duyệt dã.
序卦: 巽者入也, 入悅之, 故受之以兌, 兌者悅也.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Tốn tiếp lấy quẻ Đoái là vì cớ sao?
Tên ấy là quẻ Tốn, Tốn nghĩa là vào, nhân tình vật lí, hễ có vào được nhau, vậy sau mới ưa nhau mà hòa duyệt được, vậy nên sau quẻ Tốn tiếp lấy quẻ Đoái. Đoái nghĩa là hòa duyệt. Có tương nhập thời mới tương duyệt.
Ở trong xã hội, vô luận hạng người nào, tất trước phải dần dà ngầm thấm, có ăn vào với nhau thời mới sinh hòa duyệt mà được hiệu quả đồng tâm.
Vậy nên, muốn duyệt phục quần chúng, tất trước phải thâm nhập quần chúng. Đoái duyệt ở sau Tốn nhập, ý nghĩa rất hay.
SOÁN TỪ
Đoái, hanh, lị trinh.
兌亨利貞.
Đoái nghĩa là duyệt. Đoái tượng là nước chằm, lại tượng là thiếu nữ, nước chằm thường duyệt được cây cỏ sinh vật, thiếu nữ thường làm cho món trai phải duyệt. Vậy nên, Đoái có nghĩa bằng duyệt. Hễ nhân tinh đã duyệt nhau tất vui lòng đồng lao hợp tác mà làm việc được việc hanh thông.
Tuy nhiên, cách làm ra duyệt, thường có hai lối: Một là, duyệt bằng cách quân tử, gốc ở lòng cương chính mà tỏ rõ ra nết nhu hòa, như thế thời duyệt mà tốt. Hai là, duyệt bằng cách tiểu nhân, trong lòng thời giả dối mà ngoài mặt thời nịnh hót, duyệt đã tà như thế thời té ra duyệt mà mắc họa nên Quái từ răn rằng: Duyệt vẫn có lẽ hanh mà cần phải duyệt cho trinh chính.
Hoặc trai gái, hoặc bạn bầy, hoặc thầy tớ, duyệt nhau mà không phải gốc ở trinh chính, hoặc vì thế lợi mà cấu hợp, hoặc vì ái tình mà tư giao; tuy có duyệt nhau mặc lòng, nhưng hình thức tuy hợp mà tinh thần vẫn li, làm ơn nên oán làm bạn nên thù, có gì là hanh, lị nữa đâu.
PHỤ CHÚ: Quái từ thuộc về ba quẻ gái: Tốn nói rằng: Tiểu hanh; Li nói rằng: Lị trinh; Đoái đây cũng nói rằng: Hanh, lị trinh.
Ba quẻ ấy duy quẻ Tốn chỉ tiểu hanh, còn hai quẻ Li, Đoái, thảy bảo phải lị trinh mới hanh. Còn như Quái từ ở ba quẻ trai: Chấn, Khảm, Cấn, thảy không nói chữ trinh. Bởi vì tính chất âm nhu, thì thường hay xiêu vào đường bất chính nên thánh nhân phải răn cho chữ trinh.
Nữ tử mà đã bất trinh thời không còn gì là hanh, lị. Đó là thâm ý của thánh nhân. Vậy nên, chữ trinh chỉ thấy ở Quái từ trong hai quẻ nữ.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Đoái duyệt dã. Cương trung nhi nhu ngoại, duyệt; dĩ lị trinh, thị dĩ thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân, duyệt dĩ tiễn dân, dân vong kì lao; duyệt dĩ phạm nạn, dân vong kì tử; duyệt chi đại, dân khuyến hĩ tai.
彖曰: 兌說也, 剛中而柔外, 說以利貞, 是以順乎天而應乎人. 說以先民, 民忘其勞; 說以犯難, 民念其死.
說之大, 民勸矣哉.
Soán viết: Đoái, duyệt dã. Đây là thích nghĩa tên quẻ. Cương trung nhi nhu ngoại, duyệt; dĩ lị trinh, thị dĩ thuận hồ thiên, nhi ứng hồ nhân, duyệt dĩ tiễn dân, dân vong kì lao; duyệt dĩ phạm nạn, dân vong kì tử; duyệt chi đại, dân khuyến hĩ tai. Theo về thể quẻ, hai hào dương ở phía trong, một hào âm ở phía ngoài, tượng là trong lòng thành thực mà ngoài mặt nhu hòa, duyệt bằng một cách lị ở chính. Duyệt có lẽ tốt mà lại hợp với đạo chính. Vì thế nên trên thuận với mệnh trời mà dưới ứng với tình người. Duyệt mà chính được như thế thời thiên lí đã thuận mà nhân tâm cũng theo. Lấy cách duyệt ấy mà dẫn dắt trước cho dân, tất nhiên bảo gì dân cũng vui làm mà dân quên sự khó nhọc, lấy cách duyệt ấy mà đem dân xông vào chốn hiểm nạn, dân cũng vui lòng xông vào mà quên sự chết.
Ói! Dân tình ai vui gì sự khó nhọc mà vì sao dân vong kì lao? Dân tình ai chẳng sợ sự chết mà vì sao dân vong kì tử? Chỉ vì đức cương trung, nết nhu ngoại mà lại duyệt bằng đạo trinh chính, xui nên trời thuận người chiều. Dân gánh lấy nhọc mà không biết sự nhọc, dân xông vào chốn chết mà không sợ chết; lớn thay đạo Duyệt như thế. Thiệt làm cho dân phải tự khuyến khích đó rồi.
PHỤ CHÚ: Soán Truyện thích chữ Duyệt, rất hay là hai chữ vong; việc khỏe mà vui làm, đường sống mà vui đi, chưa phải là hiệu quả của Duyệt. Chỉ duy việc nhọc mà dân vui làm, đường chết mà dân vui đi, có tinh thần hai chữ vong, mới hình dung được hiệu quả Duyệt, nhưng há phải cưỡng bức dân mà được thế rư? Vì tâm lí của thánh nhân, cốt làm việc lị ích cho dân mà bất đắc dĩ phải nhọc đến dân, tạm thì tuy nhọc một mà an khỏe chắc được lâu dài, nên dân không lấy sự nhọc làm nhọc. Vì muốn gây đường hạnh phúc cho dân mà bất đắc dĩ phải lừa dân xông vào chốn hiểm nạn; nạn ở trước mặt mà hạnh phúc theo ở sau lưng, nên dân quên hết cả việc chết. Duyệt đạo đến thế, lị biết đường nào!!
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Lệ trạch, Đoái. Quân tử dĩ bằng hữu giảng tập.
象曰: 麗澤, 兌. 君子以朋友講習.
Quẻ này trên Đoái, dưới Đoái, tương hai thể Đoái liên tiếp với nhau, in như hai cái chằm nước nương tựa với nhau.
Nước chằm ở bên này dầm thấm qua bên kia mà chằm bên kia lại dầm thấm cho bên này, đắp đổi làm ích lợi cho nhau, tượng là quẻ Đoái.
Quân tử xem vào tượng ấy mà nghĩ rằng: Việc trong thiên hạ làm lợi ích cho nhau mà lòng hai bên thảy duyệt lạc, không việc gì bằng bầu bạn giảng tập với nhau, nên quân tử chăm làm việc bằng hữu giảng tập. Bằng hữu nghĩa là bầy bạn; giảng nghĩa là bàn bạc nghiên cứu; tập nghĩa là thí nghiệm thực hành. Chữ giảng thuộc về phần học vấn, khiến cho thêm rộng về phần tri; chữ tập thuộc về phần tác dụng, khiến cho thiết thực về phần hành; có giảng với nhau thời chủ nghĩa gì tốt, lí luận gì cao, mục đích gì hay, phương châm gì đúng, mới rành rõi phân minh là bổ thêm cho óc nghĩ. Tuy nhiên, giảng suông mà không tập, thời nói không mà thành ra vô vị mà lí luận ở nơi sở giảng, không lấy gì chứng nghiệm được phải hay chăng, không lấy gì tăng tấn được xa và rộng. Thế thời giảng suông mà có ích gì.
Vậy nên, đã giảng những điều gì, tất phải tập làm những điều ấy, nhất thiết lí luận, tất cầu kiến ở thực hành. Nếu cái gì không thực hành được thời những cái trước đã giảng, tất phải tinh ích cầu tinh.
Thế mới là: Lị ích của bằng hữu, cũng in như hai chằm dính dựa nhau đó vậy. Người ta thường gọi bằng hữu bằng lệ trạch là nghĩa như thế.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Cửu: Hòa đoái, cát. 初九: 和兌, 吉.
Sơ Cửu có đức dương cương mà ở vào địa vị dưới hết thể Đoái, ấy là có đức tổt mà lại hay khiêm ty, ở trên lại không tư tình dây dướng với ai. Đổi phó với người chung quanh mình, chỉ lấy một cách ôn hòa làm duyệt mà không khiêm tư với ai. Duyệt được như thế, chắc tốt lành.
Tượng viết: Hòa đoái chi cát, hạnh vị nghi dã.
象曰: 和兌之吉, 行未疑也.
Hòa đoái mà được cát là vì Sơ này bắt đầu vào thì Đoái, chỉ thấy cách duyệt bằng chính, tính nết của Sơ không thấy điều gì đáng nghi vậy.
2. Cửu Nhị: Phu đoái, cát, hối vong.
九二: 孚兌, 吉, 悔亡.
Cửu Nhi gần với Lục Tam là âm nhu, chính là một tay tiểu nhân.
Nếu Nhị duyệt với Tam thời e hữu hối, nhưng Nhị há phải là người dị duyệt đâu, dương cương đắc trung trong lòng chất chứa đức thành thực, bản thân giữ lấy cách tự trọng, tuy hòa với chúng mà sen chẳng nhuốm bùn. Duyệt mà tỏ rõ ra cách cương trung như thế là Phu đoái. Vậy nên được cát mà hối vong. Chữ phu nghĩa là thành thực, có đức cương ở bề trong tức là trung trực, nên nói rằng: Phu.
Tượng viết: Phu đoái chi cát, tín chí dã.
象曰: 孚兌之吉, 信志也.
Phu đoái mà được cát là vì hào Nhị cương thực cư trung, tâm chí sẵn có đức chí thành, tà tâm chẳng sao du dịch được.
3. Lục Tam: Lai
đoái, hung. 六三: 來兌, 凶.
Lục Tam âm nhu mà lại bất trung, bất chính là một hạng người duyệt mà không theo đạo chính, vì hoàn cảnh của Tam chen vào giữa bốn dương, gái thấy nhiều trai mà trầm trồ, khinh thân lại cầu duyệt với người, kết quả không ai ưa mình, thân đã hèn mà giá cũng rẻ. Lai đoái như thế, chắc phải hung.
PHỤ CHÚ: Lục Tam là một hạng tiểu nhân dị duyệt, trên thời muốn vãng duyệt với Tứ, Ngũ, dưái thời muốn lai duyệt với Nhị, Sơ, nhưng Hào từ chỉ nói chữ lai. Lai nghĩa là quay lại xuống dưới. Bởi vì Tứ, Ngũ quá cao, Tam đương còn né, vừa mới cầu với Sơ, Nhị, mà thân giá đã hỏng rồi nên không dám vãng cầu với Tứ, Ngũ; lại vì Sơ cương mà chính, Nhị cương mà trung nên không thèm duyệt với Tam. Huống gì Tứ dương cương tiếp cận với Ngũ, Ngũ là người trung chính, Tam còn dám trọc trèm nữa đâu. Hễ người ta tự mình không ra gì mà xu quyền phụ thế cầu làm thân với người, thiệt đáng trông gương hào Lục Tam này vậy.
Tượng viết: Lai đoái chi hung, vị bất đáng dã.
象曰: 來兌之凶, 位不當也.
Lai đoái mà mắc hung là vì địa vị Lục Tam bất trung, bất chính; lấy tính cách âm nhu mà cầu duyệt vơ nên nỗi đến hung.
4. Cửu Tứ: thương đoái, vị ninh, giới tật, hữu hỉ.
九四: 商兌, 未寧, 介疾, 有喜.
Cửu Tứ có chất dương cương, nhưng ở vào vị Tứ lại là âm vị, chẳng phải là một người tuyệt đối quân tử nên Hào từ đặt ra lời lưỡng dạng. Vả lại hoàn cảnh Cửu Tứ, trên thừa tiếp một người trung chính là Cửu Ngũ, dưới gần gũi một đứa nhu tà là Lục Tam. Duyệt với Cửu Ngũ hay sao?
Hay duyệt với Lục Tam hay sao? Bồi hồi giữa khoảng hai bên nên đương lúc ban đầu Tứ vẫn thương lượng nên duyệt về phía nào mà chưa hay giải quyết (Thương nghĩa là đong lường, cân nhắc).
Thiệt đáng may thay! Bản chất Tứ vẫn dương cương mà Ngũ lại đồng đức mới quyết nhiên theo chính bỏ tà. Tam đã không dám trây dính đến mình thời Tứ với Ngũ lại càng tương đắc, quân thần tế hội, nước thịnh dân yên, có việc phúc khánh về sau, thiệt đáng mừng cho Tứ đó vậy. (Giới nghĩa là cương quyết; tật nghĩa là ghét bỏ; giới tật nghĩa là quyết nhiên bỏ Lục Tam).
Tượng viết: Cửu Tứ chi hỉ, hữu khánh dã.
象曰: 九四之喜, 有慶也.
Cửu Tứ mà được hữu hỉ, há phải mừng riêng cho Cửu Tứ đâu, thiệt là phúc khánh chung cho thiên hạ quốc gia đó vậy.
5. Cửu Ngũ: Phu vu bác, hữu lệ.
九五: 孚于剝, 有厲.
Cửu Ngũ dương cương, trung chính, vẫn là một bậc quân tử nan duyệt, nhưng vì ở vào thì Đoái mà lại mật cận với Thượng Lục. Thượng Lục là người xảo ngôn lịnh sắc, khéo mỵ duyệt mà hãm hại người nên Hào từ phải răn cho Ngũ rằng: Thượng Lục kia là một người âm nhu, tiêu bác được dương đó. Nếu Ngũ mà thân tín với Thượng, tất nhiên bị nguy.
Bác là chỉ vào Thượng Lục; ở trên quẻ Bác đã có câu: Nhu bác cương. Nay Thượng Lục có ý toan bác hào Ngũ. Nếu Ngũ mà tin nó thời bị nguy đó.
Tượng viết: Phu vu bác, vị chính đang dã.
象曰: 孚于剝, 位正當也.
Cửu Ngũ ở gần Thượng Lục có mùi hiềm nghi phu vu bác nên Hào từ phải có lời răn. Bởi vì địa vị của Ngũ sở xử, chính là nên răn vậy.
PHỤ CHÚ: Hào từ mỗi hào tất thảy có chữ Đoái, duy hào Ngũ không chữ Đoái mà lại có chữ Bác, bởi vì: hào Ngũ là ở vào địa vị chí tôn nên lấy duyệt âm làm đáng sợ, Hào từ không nói Duyệt mà nói Bác là cho quân tử mà phòng bị tiểu nhân. Các hào nếu duyệt lầm thời tai hại chỉ nhất thân, đến như Ngũ mà duyệt lầm thời tai hại đến nhất quốc, nên Hào từ có lời răn mà Tượng Truyện cũng có nói rằng: Vị chính đáng dã.
6. Thượng Lục: Dẫn
đoái. 上六: 引兌.
Thượng Lục làm chủ cho Đoái. Bởi vì quẻ Đoái nguyên là Càn, một hào âm thay vào mà hóa làm Thượng Lục mới thành được Đoái nên hào Thượng là duyệt chủ.
Thượng đã là duyệt chi chủ, lại ở trên hết quẻ là duyệt chi cực, duyệt đã đến lúc cực điểm rồi còn dắt kéo dài ra, thế là dẫn đoái. Thái độ của Thượng như thế, đáng lẽ có hung, hối lẫn, nhưng Hào từ chỉ hai chữ dẫn đoái mà thôi.
Bởi vì Cửu Ngũ đã biết Thượng Lục là Bác mà không tin. Tứ thời thân với Ngũ, Nhị thời ứng với Ngũ. Thượng dầu muốn dẫn Đoái, nhưng cũng chẳng dẫn được ai. Thế cũng chẳng là hại gì đến thế đạo nhân tâm nên không cần nói đến: Hung, hối, lẫn.
Tượng viết: Thượng Lục dẫn đoái, vị quang dã.
象曰: 上六引兌, 未光也.
Duyệt đã đến cực rồi, còn kéo dài ra, chỉ là tỏ rõ cho tâm sự của tiểu nhân mà thôi, chẳng lấy gì làm quang minh vậy.
PHỤ CHÚ: Đoái vẫn nghĩa là duyệt, nhưng Quái từ với Hào từ thời thủ nghĩa khác nhau. Quái từ là nói đạo duyệt của thánh nhân nên có chữ hanh, lị, trinh là hoàn toàn thuộc về duyệt tốt. Duy lời sáu hào thời theo địa vị của mỗi hào, hào có chính, bất chính thời duyệt có công, tư.
Toàn quẻ có hai hào âm, bốn hào dương, hai âm làm chủ cho duyệt là bọn tiểu nhân phỉnh hót người, cố sức cầu duyệt với tứ dương, nhưng cầu duyệt mà làm bằng cách tiểu nhân nên Lục Tam lai đoái mà hung, Thượng Lục dẫn đoái mà vị quang. Lai với dẫn là đồng ác tương tế. May thay! Bốn dương hay đồng đức tương tế, không ai sụp vào bầy tiểu nhân. Vậy nên, Sơ Cửu, Cửu Nhị thời được cát, Cửu Tứ thời hữu hỉ, Cửu Ngũ chỉ răn bằng hữu lệ. Thế mới biết: Quân tử với tiểu nhân, thiệt là băng thán bất tương nhập. Dầu tiểu nhân khéo duyệt đến thế nào, nhưng quân tử chỉ theo chính đạo, không bao giờ duyệt với tiểu nhân. Đức Khổng Tử có nói rằng: Quân tử khó duyệt lắm, duyệt mà không nhàm với đạo duyệt thời chẳng duyệt vậy. Tiểu nhân thời dễ duyệt, duyệt mà chẳng nhằm với đạo duyệt, cũng cứ duyệt càn.
Xem như lời ấy, duyệt đúng với đạo mới duyệt, tức là quân tử, duyệt trái với đạo mà duyệt, tức là tiểu nhân.
Xem vào nghĩa sáu hào quẻ Đoái lại càng rõ lắm, nhưng ta muốn xét rõ tinh trạng tiểu nhân, chỉ nên nhận kỹ hai chữ dẫn đoái với lai đoái. Cách tiểu nhân làm duyệt người có hai lối: Một là cách gấp mình không cầu nó mà nó tự lai với mình, đó là dùng cách gấp là lai đoái; hai là dùng cách gấp như trên mà duyệt được rồi thời lại có năm bảy anh dắt dây kéo nhợ, dùng bằng cách lâu dài, ấy là dẫn đoái.
Bạn quân tử nếu không cẩn thận, lỡ một chốc sẩy chân thời sụp vào lưới duyệt của nó mà tai hại không biết chừng nào! Vậy nên, Hào từ phải lo cho phần quân tử, hào Nhị dùng chữ hối, hào Tứ dùng chữ tật, hào Ngũ dùng chữ lệ mà ý tứ rất thâm thiết. Lại ở chữ phu vu bác, ý như nói rằng: Nó muốn duyệt với mình là nó cốt đẽo xẻ mình đó. Đọc Dịch mà chịu nghĩ như thế, mới khỏi phụ khổ tâm của thánh nhân.
59. QUẺ PHONG THỦY HOÁN
Tốn trên; Khảm dưới
Quẻ này là quẻ Phong Thủy Hoán. Khảm hạ cũng là Nội Khảm, Tốn thượng cũng là Ngoại Tốn. Tốn phong Khảm thủy, nên tên quẻ đọc bằng Phong Thủy Hoán.
TỰ QUÁI
Tự quái: Đoái giả duyệt dã, duyệt nhi hậu tán chi, cố thụ chi dĩ Hoán, Hoán giả ly dã.
序卦: 兌者悅也, 悅而後散之, 故受之以渙, 渙者離也.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Đoái tiếp lấy quẻ Hoán là vì cớ sao?
Trên đây là quẻ Đoái, Đoái nghĩa là duyệt, duyệt đã đến cực rồi, tất đến nỗi ly tán, đó là một nghĩa, thường tình người ta, lúc lo buồn thời khí uất kết mà khi duyệt lạc thời khí thư tán, lại là một nghĩa, thảy là nghĩa duyệt rồi mà tán. Vậy nên sau quẻ Đoái tiếp lấy quẻ Hoán.
Theo về tượng quẻ, Tốn phong ở trên Khảm thủy, gió đi ở trên nước, nước đụng lấy gió thời Hoán tán tứ tung, nên đặt tên quẻ bằng Hoán; Hoán nghĩa là tan tác.
SOÁN TỪ
Hoán hanh, vương cách hữu miếu, lị thiệp đại xuyên, lị trinh.
渙亨, 王假有廟, 利涉大川, 利貞.
Quẻ này phản đối với quẻ Tụy. Tụy nghĩa là nhóm; Hoán nghĩa là tán.
Ở quẻ Tụy thời Tụy vẫn có lẽ hanh, theo về lẽ thường thời Hoán đáng lẽ là không hanh, nhưng vi Dịch lí biến hóa bất trắc, việc trong thiên hạ, có cái lấy tụ làm hanh, cũng có cái lấy tán làm hanh.
Túc như: Tập quyền vào trung ương mãi thời thành ra họa chuyên chế, muốn cứu họa ấy, tất phải phân quyền cho nhân dân. Tập sản vào tư bản gia mãi thời kinh tế ở xã hội tất đến nỗi khủng hoảng. Muốn cứu họa ấy tất phải công sản cho xã hội. Lại như, nghị trường nhiễu loạn, tất phải giải tán nghị viện; quân đội bạo hoành, bỏ kỉ luật, họa nhân dân, tất phải giải tán quân đội.
Đại loại như những việc trên đây thảy là lâm cơ ứng biến, tùy thì chế nghị. Ví như, chữa bệnh tà thực, tất phải tán tà. Tụy mà hanh chẳng qua là sự thường; duy Hoán mà hanh mới là công dụng thần diệu của Dịch, nên Quái từ nói rằng: Hoán hanh, nghĩa là ở vào thì Hoán mà xử trí cho đúng với thì tất nhiên được hanh, nhưng mà sở dĩ làm được hanh, tất trước hết phải có căn bản, thứ nữa phải có thủ đoạn. Căn bản là cái gì? Là cốt ở tinh thần. Bắt đầu làm công việc Hoán phải chất chứa tấm lòng chí thành, chỉ biết vì nước vì dân mà không chen vào một tý tư lợi, tượng như ông vương đến nhà tông miếu, cốt đem tinh thần mình mà cảm cách được tinh thần tổ tiên, tôn chí thành như thế thời bắt tay làm việc Hoán thiên hạ mới tin lòng mình mà khỏi sinh ra đám phản đối; ấy là căn bản làm đạo Hoán.
Lại còn phải có thủ đoạn, hễ xã hội đương lúc tối tăm, dân tình còn quen giữ thói ngoan cố, chứa những kết tập đã lâu ngày mà một mai khiến cho giải tán, việc lạ lùng bởi mới thường đến nỗi nhân tình kinh cụ, dư luận phân vân. Nếu phấn dung trực tiền vẫn có cơ nguy hiểm. Lúc bây giờ muốn làm đạo Hoán tất phải có sức óc cho sâu xa, có sức gan cho to lớn, mạo hiểm cảm vi, trông bờ thảy tới, tượng như một người có gan vượt qua sông lớn, đó là thủ đoạn.
Có căn bản tốt như thế, có thủ đoạn hay như thế thời làm những công việc ở thì Hoán như các việc ở trên đây còn ngại gì mà không được hanh thông.
Tuy nhiên, thì Hoán là thì khó xử, việc Hoán là việc bất thường. Nếu người đứng lên vũ đài ấy mà tà tâm tiểu trí, lấy một cách bất chính mà xông vào trước mắt muôn mũi sặt thời chẳng những tai hại ở thân mình mà lại làm hại đến toàn xã hội. Thế thời đạo Hoán ấy làm nên chúng phản thân ly, chẳng tai hại lắm hay sao! Nên Quái từ nói rằng: Lị trinh, nghĩa là ở thì Hoán làm việc Hoán, nhất thiết phải giữ cho được đạo chính. Hễ giữ được đạo chính thời Hoán chỉ một đám mà Tụy được cả Đồng Nhân, Hoán chỉ tạm thì mà Tụy được rất trường cửu, chẳng phải lị mà hanh hay sao?
PHỤ CHÚ: Chúng ta xem ở quẻ Tụy, Quái từ có chữ hanh, đến quẻ Hoán, Quái từ cũng có chữ hanh. Mâu thuẫn thay! Quái lạ thay! Thiệt không gì bằng Dịch lí.
Đạo lí trong thiên hạ chỉ có tương đối mà không tuyệt đối, tuyệt đối Tụy mới hanh vẫn không phải, tuyệt đối Hoán mới hanh cũng không phải.
Hễ một phía nên nhóm lại, tất có một phía tan đi, tất có tan được một phía đi thời mới nhóm được một phía lại; chỉ tranh nhau là hai phía đó. Phía nào hợp với thời thế, thích với nhân tình, đúng với nhân đạo thời nhóm đó là hạnh phúc cho loài người. Phía nào trái với thời thế, chống với nhân tình, không hợp với nhân đạo thời tan được nó lại hạnh phúc cho loài người càng lớn.
Vậy nên trong Dịch đã nói rằng: Tụy hanh, lại nói rằng: Hoán hanh. Đạo lí vì có tương đối mới hay tương thành, thiệt chí lí bất dịch như thế, há phải như người hai lưỡi, rắn hai đầu, rày bảo người ta Tụy, mai bảo người ta Hoán mà dụng đâu cũng nói hanh đâu, xin học giả chớ nhận lầm nghĩa ấy.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Hoán hanh, cương lai nhi bất cùng, nhu đắc vị hồ ngoại, nhi thượng đồng. Vương cách hữu miếu, vương nãi tại trung dã. Lị thiệp đại xuyên, thừa mộc hữu công dã.
彖曰: 渙亨, 剛來而不窮, 柔得位乎外而上同. 王假有廟, 王乃在中也. 利涉大川, 乘木有功也.
Soán viết: Hoán hanh, cương lai nhi bất cùng, nhu đắc vị hồ ngoại, nhi thượng đồng.
Hoán vì sao mà được hanh rư? Bởi vì theo về thể quẻ, hào Cửu nguyên ở quẻ Càn mà lại thay vào hào Nhị thành ra Khảm, hào Lục nguyên ở quẻ Khôn mà lên thay vào hào Tứ thành ra Tốn. Như thế là dương cương tấn lần mà không mắc lấy khốn cùng, âm nhu ở Ngoại Quái mà thông đồng với kẻ trên mình, nhu chỉ vào Lục Tứ, Ngoại Quái, thượng chỉ vào Cửu Ngũ.
Cứ theo tượng quẻ như thế thời là cương, nhu đủ hai ngón, trong ngoài chung một lòng, ở thì Hoán làm việc Hoán mà đủ cả thể, dụng như thế, còn sợ gì chẳng hanh thông.
Tòng lai làm việc thiên hạ, chỉ một mực cương mà thôi thời thái cương tắc chiết; chỉ một mực nhu mà thôi thời thái nhu tắc phế; mà huống gì hoán tán, há thiên cương hay thiên nhu mà làm xong được rư?
Duy như quẻ Hoán này dương cương đã bất cùng, âm nhu lại đắc vị, đủ cả cương, nhu như thế mới làm nên được Hoán mà hanh.
Nói trái lại, nếu cương mà bị khốn cùng, nhu mà bị khốn cùng, nhu mà không đắc vị, cương chẳng ra cương, nhu chẳng ra nhu, thời Hoán bao nhiêu càng khốn đốn bấy nhiêu, còn làm gì nên hanh được đâu. Ý nghĩa hai câu ở Soán Truyện lại tinh diệu thứ nhất là câu: Nhu đắc vị hồ ngoại nhi thượng đồng. Cương vẫn là quân tử, nhu vẫn là tiểu nhân, nhưng trong lẽ việc đời vô tiểu nhân bất thành quân tử nên không thể bỏ được nhu.
Nhưng tất phải cương trong, nhu ở ngoài mà lại cho nó đắc vị hồ ngoại mà lại bắt buộc cho nó phải thượng đồng. Như thế thời quân tử dụng sự trong, tiểu nhân phụng lệnh ở ngoài làm công việc Hoán có khó gì đâu? Soán Truyện thích nghĩa hai chữ Hoán hanh, chỉ hai câu ấy thiệt là tinh mật.
Vương cách hữu miếu, vương nãi tại trung dã.
Quân tử lại nói rằng: Vương cách hữu miếu, bởi vì làm nên nghiệp vương là căn bản trong lòng mà thôi.
Xưa nay, người làm nên nghiệp vương, tất phải đánh tan chính phủ cũ mà muốn đánh tan chính phủ cũ, trước phải thu phục lòng người, đem lòng mình đặt vào trong lòng dân, như thế là tại trung đó vậy.
Lấy lòng mình mà thu phục được lòng dân, cũng in như lấy tinh thần mình mà nhóm được tinh thần tổ tiên. Vậy nên nói: Vương cách hữu miếu.
Thầy Mạnh Tử có nói rằng: Thu được hết dân có một cách, thu được lòng dân tức là được dân.
Đắc kì tâm chính là nghĩa chữ tại trung.
Vương cách hữu miếu chỉ là nói thí dụ. Theo như thường tình, người ta rất thành kính chỉ là ở trước mặt thần nên mượn chữ vương cách hữu miếu mà hình dung đạo chí thành cảm nhân. Vậy nên, Soán Truyện thích nghĩa rằng: Nãi tại trung nghĩa là cốt trong lòng mà không phải tại hình thức ở bề ngoài làm công việc thì Hoán, tất căn bản ở tinh thần.
Lị thiệp đại xuyên, thừa mộc hữu công dã.
Quái từ lại nói rằng: Làm công việc Hoán ở thì Hoán in như vượt qua sông lớn, qua sông tất cần phải có thuyền làm công việc Hoán tất cần phải có tài mạo hiểm; đó chính là cây gỗ làm thuyền để qua sông, tức là cậy tài năng mà làm nên việc Hoán.
Sóng cao như núi, nước lớn bằng trời mà bỗng chốc qua sông tới bờ, rảnh hết tai, tan hết nạn, ấy là nhờ công vào đâu, chỉ nhờ vào cây thuyền mà thôi nên nói rằng: Thừa mộc hữu công. (Thừa nghĩa là cưỡi, mộc là cây gỗ làm thuyền lái). Cưỡi cây gỗ mà qua được sông tỉ như cậy nhân tài mà làm nên việc Hoán.
PHỤ CHÚ: Dịch học vẫn có tượng, nhưng gốc cốt ở lí. Vì lí mà vô hình, tượng là hữu hình nên phải mượn tượng hữu hình mà tỏ rõ lí vô hình. Như Quái từ ở đây nói rằng: Lị thiệp đại xuyên mà Soán Truyện lại thích rằng: Thừa mộc hữu công dã. Thế thời chỉ nói việc chèo thuyền qua sông hay sao? Không phải, Thiệp xuyên là chỉ nói bằng cách mạo hiểm, thừa mộc là chỉ nói bằng cách nương tựa nhân tài.
Kinh Thư: Vua Cao Tổ nói với ông Phó Duyệt rằng: Như cách qua sông lớn, ta phải dùng mày làm thuyền lưới, chinh là nghĩa Quái từ đây.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Phong hành thủy thượng, Hoán. Tiên vương dĩ hưởng vu đế, lập miếu.
象曰: 風行水上, 渙. 先王以享于帝立廟.
Tốn ở trên Khảm, tượng là gió đi ở trên nước, gió đánh nước, nước phải tan, đó là tượng quẻ Hoán. Tiên vương xem tượng ấy mà biết rằng: Lí trong thiên hạ, nhóm lâu ngày tất phải tán, khi đã tản tất phải lo nhóm lại mà muốn cho nhóm lại được không gì bằng thống nhất được nhân tâm.
Muốn thống nhất được nhân tâm, tất phải xem ở chốn nhân tâm tín ngưỡng, vật sinh ra gốc ở trời nên nhân tâm tín ngưỡng không gì bằng trời. Người sinh ra gốc có tổ nên nhân tâm sùng bái không gì bằng tổ tiên.
Tiên vương muốn cho nhân tâm thống nhất mà khỏi mắc phải vạ tan tác chia lìa, tất trước phải giữ mình có chốn làm gương, nhóm hết tinh thần mình cho cảm cách đến trời, đến tổ tiên, mong khiến cho người trong một nước, ai nấy cũng lấy trời làm gốc, lấy tổ tiên làm cha. Vậy nên đặt lễ tế thần thượng đế, khiến cho dân biết kính trời; dựng nhà miếu tế tổ, khiến cho dân chớ quên tổ. Đó rặt là lấy tinh thần của mình mà liên lạc với tinh thần của người, chính là phương pháp để thống nhất nhân tâm đó vậy, nhân tâm đã thống nhất, còn lo gì hoán tán nữa đâu?
PHỤ CHÚ: Ở trên Quái từ chỉ nói công việc làm Hoán là vì có cái nên tan mà phải tan. Ở đây Tượng Truyện lại nói những công việc cứu Hoán là chuyên nói về việc nên nhóm, có một phương diện nhóm mới là nên một phương diện tan; đã có một phương diện tan tất cần có một phương diện nhóm; nhóm được phía này, mới tan được phía kia, đã tan được phía kia, lại nhóm được phía này.
Soán từ, Soán Truyện với Tượng Truyện ý nghĩa bổ trợ cho nhau; kì thực, lẽ trong thiên hạ, không bao giờ chỉ có tụ mà không tán, cũng không bao giờ chỉ có tán mà không tụ; chỉ cốt ở người ta biết tùy thì biến hóa, dữ thời tránh lành thời theo mà thôi.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Lục: Dụng chửng mã tráng, cát.
初六: 拯馬壯, 吉.
Sơ Lục ở đầu hết quẻ, chính là bắt đầu vào thì Hoán, vừa lúc đầu chia lìa tan tác mà thu thập cho rất mau, chắc còn có lẽ dễ. Sơ Lục âm nhu, tài hèn sức yếu mà đương lấy hoàn cảnh như thế, chẳng gay go lắm hay sao? Nhưng may thay ở trên mình có Cửu Nhị là bạn dương cương đắc trung, có tài chữa vớt được thì Hoán.
Sơ vì nhu thuận nên biết ỷ thác vào Cửu Nhị, tượng như người đi đường được con ngựa khỏe, dầu xa mấy cũng đi tới nơi, ở lúc đầu thì Hoán mà cứu vớt được mau như thế, chắc là tốt lành, nên nói rằng: Mã tráng cát. (Mã tráng, chỉ vào Cửu Nhị).
Tượng viết: Sơ Lục chi cát, thuận dã.
象曰: 初六之吉, 順也.
Sơ Lục mà được cát, vì biết nương tựa người hay, vừa thuận với thì nghĩa vậy.
2. Cửu Nhị: Hoán, bôn kì kỉ, hối vong.
九二: 渙奔其杌, 悔亡.
Ở vào thì Hoán, nhân tình chểnh mảng, cuộc đời chia lìa, người ở vào thì này, thiệt dễ có việc hổỉ lắm; nhưng Cửu Nhị bản thân đã có tài dương cương mà ở dưới mình lại có Sơ Lục, Sơ còn dựa cậy vào mình làm ngựa khỏe, mình nên dựa cậy vào Sơ làm ghế ngồi, chung vai liền cánh, dỡ đần với nhau ở giữa hội lưu ly.
Người cô lập mà mình có bầy, người chia lìa mà mình sum họp, thiệt là một việc đáng may cho Nhị, nên Hào từ khuyên cho rằng: Nhị ơi! Ở vào thì Hoán thiệt là đáng lo, nhưng có hào Sơ kia giùm giúp với Nhị là cái ghế dựa Cửu Nhị đó, Nhị gấp chạy tới mà nương thân vào, tất được an lành mà hối vong. (Kỉ nghĩa là cái ghế dựa, chỉ vào Sơ; bôn kì kỉ nghĩa là cúi xuống mà cầu thân với Sơ). Ý Hào từ này chỉ bảo cho người ta cần có bạn mới an. Nhị cầu được Sơ thời địa vị mới an vững.
Tượng viết: Hoán, bôn kì kỉ, đắc nguyện dã.
象曰: 渙奔其杌, 得愿也.
Nhị nương tựa vào Sơ là cương, nhu tương tế, in như người tựa được ghế mà ngồi được vững là bằng lòng rồi vậy.
3. Lục Tam: Hoán kì cung, vô hối.
Ở vào thì Hoán tán, cứ lẽ vẫn không gì tốt, nhưng mà theo về đạo Hoán thì có cái nên tan mà tan thời những người biết cách tan lại càng hay lắm.
Lục Tam âm nhu lại bất trung chính, e chỉ là một người tư kỉ mà thôi, nhưng ở vào vị dương, lại chính ứng với Thượng Cửu Ngoại Quái, lại là một người có lòng lo việc đời, nên Hào từ khuyên cho rằng: Lục Tam ơi! Địa vị Tam với bạn hữu Tam có thể làm một người tốt trong thì Hoán. Nếu Tam hay toan vứt cái mình riêng của Tam mà lo gánh việc đời chắc không gì phải ăn năn.
Cung nghĩa là mình riêng; hoán kì cung cũng như chữ phỉ cung ở quẻ Kiển; nghĩa chữ Hoán này không phải như nghĩa tên quẻ, chỉ học bằng Hoán là tan, tan cái thân mình nghĩa là hy sinh cái lị riêng của nhất kỉ.
Tượng viết: Hoán kì cung, chí tại ngoại dã.
象曰: 渙其躬, 志在外也.
Hoán kì cung là chí ý của Lục Tam, bỏ mình vì người, cốt lị ích ở phía ngoài mà thôi.
4. Lục Tứ Hoán kì quần, nguyên cát, hoán hữu khưu, phỉ di sở tư.
六四: 渙其群, 元吉, 渙有丘, 匪夷所思.
Quẻ này từ hào Tứ sắp lên, phát minh nghĩa đặc biệt trong quẻ Hoán, mà Hào từ Lục Tứ nghĩa lí lại rất cao sâu, xin theo mặt chữ giải thích qua, còn như ý sâu xa, xin học giả tâm đắc.
Hoán là thì tan rồi, tan thời trông có bầy, tan thời trông được nhóm, đó là ý tứ người tầm thường ai cũng như thế.
Nhưng Lục Tứ thời lại trái hẳn; Tứ tiếp cận với Cửu Ngũ, Ngũ là quốc trưởng, Tứ là đại thần.
Tứ lấy đức nhu thuận mà giúp đỡ với Ngũ. Ngũ lại có đức cương trung, cương, nhu tương tế, giùm sức mà gánh việc đời, toan cứu thiên hạ ra khỏi vòng hoán tán nên đem công tâm công đức, xem người [trong] nước rặt là bầy của mình nên vứt bỏ phe phái riêng, để nhóm bầy chung cả nước. Thế là tốt lành lớn đó rồi.
Vì tan bằng một cách đại công như thế mà kết quả được thiên hạ thảy khuynh hướng vào Tứ, bầy nhỏ tuy tan mà bầy lớn càng sắp gò sắp đống (Hoán nghĩa là tan; khưu nghĩa là nhóm). Vì tan nhỏ mà té ra được nhóm lớn, thiệt không phải sức óc người thường mà tư tưởng được đến nơi (Quần nghĩa là bầy riêng; khưu nghĩa là gò đống; di nghĩa là tầm thường; tư nghĩa là nghĩ, cũng có nghĩa là tư tưởng).
PHỤ CHÚ: Ba hào ở quẻ dưới, chỉ là ở thì Hoán mà lo cho khỏi Hoán. Đến Lục Tứ này thời lại lấy một cách Hoán mà làm cho mất hết Hoán. Người ta chỉ biết tan là tan mà không biết cách tan của Cửu Tứ, đó chính là làm cho nên nhóm, nên nói rằng: Phỉ di sở tư.
Tan cái rất ít mà nhóm được cái rất nhiều; tan bầy của mình mà nhóm được bầy cả thiên hạ. Công việc to lớn như thế, thủ đoạn lạ lùng như thế, há người thường mà nghĩ được hay sao?
Ông Lão Tô thích Hào từ này có nói rằng: Ôi! Những đám bầy riêng kia là ý thánh nhân muốn tan được xong để hỗn nhất thiên hạ đó vậy.
Sách Mạnh Tử cũng có câu rằng: Những việc quân tử làm, chúng nhân vẫn không biết được. Ý nghĩa mấy câu ấy, chính là Hoán kì quần, phỉ di sở tư.
Tượng viết: Hoán kì quần, nguyên cát, quang đại dã.
象曰: 渙其羣, 元吉, 光大也.
Ở vào thì Hoán, bảo rằng không nên hoán tán mà nên lo kết hợp chắc ai cũng biết, nhưng chỉ là tư tưởng của người thường mà thôi.
Nếu kết hợp chỉ là bầy nhỏ thời phe này phái nọ nhóm càng nhiều thời hoán tán càng lớn, chỉ duy như Lục Tứ, tan quách bầy riêng của một mình mà nhóm được bầy chung của cả nước, như thế mới là nguyên cát mà quảng đại (Chữ quang phản đối với chữ ám muội, nghĩa là chủ nghĩa cực minh bạch, tổng chi càng rõ ràng; đại là phản đối với hiệp tiểu, nghĩa là quy mô rất rộng rãi, sự nghiệp rất lớn lao).
5. Cửu Ngũ: Hoán, hạp kì đại hìệu, hoán vương cư, vô cựu.
九五: 渙汗其大號, 渙王居, 無咎.
Cửu Ngũ có đức dương cương, trung chính mà lại được ở vị chí tôn xử vào thì Hoán hay tán bố hiệu lệnh lớn, thì nhân phát chính, thuyết phục được lòng người, nhưng hiệu lệnh phát ra đi khắp cả trong ngoài, tượng như giọt mồ hôi ở thân người, nhuần thấm khắp tứ thể nên nói: Hoán hạn kì đại hiệu.
Vả lại, sau lúc hoán tán, người đau kẻ khổ trông mong ơn cứu tế của nhà nước thời lại nên tán tài phát túc, tan hết những kho tàng chứa trữ của nhà vua, để chu cấp cho dân cùng trong nước; xử trí ở thì Hoán mà được như thế là rất đúng với thì nghĩa, chẳng gì lầm lỗi nữa.
Trong các Hào từ, duy hào Tứ, hào Ngũ, mỗi hào dùng đến hai chữ Hoán, vì mỗi câu có một chữ Hoán là một công việc. Như hào Ngũ đây nói: Hoán hạn kì đại hiệu là tán bố hiệu lệnh, ấy là một công việc; hoán vương cư là tan phát đồ chứa trữ, lại là một công việc (Chữ cư nghĩa là đồ chứa trữ).
Ông Lục Tuyên Công có nói rằng: Tan những chứa trữ nhỏ mà thành được chứa trữ lớn, chính là nghĩa hoán vương cư đó vậy. Ở vào thì Hoán mà hay lấy cách Hoán cứu được hoán, trước kia Lục Tứ tan bầy nhỏ thành được bầy lớn. Nay Cửu Ngũ tan chứa trữ nhỏ, để thành được chứa trữ lớn, hình thức khác nhau mà tinh thần in nhau. Chứa trữ nhỏ là cái gì? Là kho tàng của nhà công. Chứa trữ lớn là cái gì? Là nhân tâm của ức triệu người thu tóm vào một chốn.
Sách Đại Học có câu: Tài tán tắc dân tụ 財散則民聚, vì của có tan thời dân mới nhóm. Tán tiểu sự dĩ thành đại sự 散小事以成大事 là đạo lí ấy.
Tượng viết: Hoán vương cư vô cựu, chính vị dã.
象曰: 渙王居無咎, 正位也.
Cửu Ngũ có đức chính, được ở vị chí tôn. Ở trong một nước, tất nên tan của mình để thu lòng dân. Vì vậy nên Hoán vương cư mới được vô cựu.
6. Thượng Cửu: Hoán, kì huyết khử, dịch xuất, vô cựu.
上九: 渙其血去, 逖出, 无咎
Toàn quẻ Hoán sáu hào, Sơ, Nhị, Tứ, Ngũ thảy bất tương ứng, duy Thượng Cửu này thời có Tam làm chính ứng. Ở vào thì Hoán mà mình có người viện ứng là việc đáng may cho Thượng lắm. Thượng lại có tài dương cương ở vào thì Hoán chi cực. Hoán đã cực rồi, không lẽ Hoán hoài, chắc là cái dấu thương cũ đã trừ khử được mà lại có thể thoát ra khỏi vòng kinh cụ. Huyết khử, dịch xuất, chung đợi lấy một chữ Hoán, nghĩa là tan được những cái xấu. Hoán kì huyết thời trừ bỏ được dấu thương hại. Hoán kì dịch thời thoát khỏi được việc kinh sợ. Như thế là được vô cựu ở cuối cùng thì Hoán vậy (Huyết là máu là dấu bị thương hại; dịch là tượng phải kinh sợ).
Tượng viết: Hoán kì huyết, viễn hại dã.
象曰: 渙其血, 遠害也.
Hào từ Thượng Cửu là vì đã đến thì Hoán chi cực rồi thời tuy vô vi như Thượng Cửu nhưng cũng tránh được họa hại vậy (Chữ hại tức là chữ huyết, chữ dịch; chữ viễn tức là chữ khử, chữ xuất).
PHỤ CHÚ: Hoán với Tụy, hai quẻ phản đối mà cũng là hai quẻ tương đối.
Theo về đại vận của tạo hóa, mây kết mãi mà không tan thời thành ra mật vân bất vũ, nước trữ mãi mà không tan thời thành ra thủy ứ tắc xú; dầu đến thực sự của loài người cũng không lẽ gì Tụy mãi mà không Hoán, vả cũng tất phải trải qua Hoán, mới đến được Tụy, chỉ tranh nhau ở chữ thì mà thôi. Thì chính là cái la bàn châm chỉ phương hướng cho ta làm việc. Thì nên Tụy mà Tụy thời làm việc Tụy mới đúng thì. Thì đã đến lúc Hoán mà không làm việc Hoán, tức là trái thì, trái thì tức là bội đạo.
Nên Dịch ở quẻ Tụy nói rằng Tụy hanh, nhưng tới quẻ Hoán cũng nói rằng Hoán hanh. Nếu chỉ Tụy hanh mà Hoán bất hanh thời không phải là Dịch lí.
Duy Quái từ ở hai quẻ, chúng ta không nên đối chiếu, mà cần biết diệu dụng của thánh nhân.
Hai quẻ chung một chữ hanh, đành là lí trong thiên hạ. Tụy vẫn hanh mà Hoán cũng vẫn hanh được.
Nhưng sở dĩ chung nhau một câu vương cách hữu miếu là vì cớ sao? Bởi vì làm việc thiên hạ, vô luận lúc thường hay lúc biến, cảnh thuận hay cảnh nghịch, căn bản của người làm việc không bao giờ không cốt ở chí thành; chí thành là tinh thần thuộc về vô hình nên phải mượn việc tế tự mà hình dung tinh thần của chí thành.
Loài người dầu gian nguy đến thế nào, nhưng dối người, dối bạn vẫn không giả dối được. Đến như khinh khi thiên thần, khinh khi tiên tổ thời dầu thất phu thất phụ cũng ít có. Vậy nên Soán từ hai quẻ chung có câu vương cách hữu miếu, nghĩa là gặp thì Tụy mà làm việc Tụy, gặp thì Hoán mà làm việc Hoán. Tổng chi, phải căn bản ở chí thành, in như một người vào chủ tế mà tinh thành [của] mình đối chất được thần minh, có căn bản như thế thời làm việc Tụy vẫn hay, mà làm việc Hoán cũng tốt. Duy đến thủ đoạn, thời tùy thì mà khác nhau. Vậy nên quẻ Tụy thời có câu lị kiến đại nhân mà không câu lị thiệp đại xuyên. Đến quẻ Hoán thời có câu lị thiệp đại xuyên mà không câu 1ị kiến đại nhân. Đó là nhân thủ đoạn khác nhau nên Quái từ cũng có phân biệt.
Bởi vì thì Tụy là việc thường, cảnh thuận, đoàn thể vẫn có sẵn mà cơ sở vẫn không động giao, chỉ cốt một người đại đức đại tài để làm lãnh tụ cho quần chúng là cốt nổi việc, kì thực không gì là nguy hiểm, nên chỉ nói lị kiến đại nhân mà không nói lị thiệp đại xuyên.
Đên như thì Hoán, việc Hoán thời khác hẳn, cảnh đã nghịch, việc cũng biến, đoàn thể cũ đã hủ bại, cơ sở cũ đã động giao, chế độ cũ đã không thể bảo tồn được. Ngoài xét ở xã hội, trong xét ở nội tình, những việc nên đánh tan rất nhiều mà muốn chẳng đánh tan cũng chẳng phương pháp gì thay đổi (?).
Ở vào thời đại ấy mà muốn thổi gió quét mây, khoét đê trổ nước thời những cảnh tượng nguy hiểm biết là bao nhiêu, tất phải có can đảm cho rất lớn, thấy phong ba mà không sợ, có tài liệu cho rất đủ, mệt chèo chống mà không nao; in như qua thuyền sóng lớn, vững gan cầm lái thời sóng gió tha hồ, đồng bạn chèo sào thời bờ kia hẳn tới, công việc làm nổi Hoán, há phải một người đại tài đại đức mà làm xong rư!
Nên Quái từ không có câu lị kiến đại nhân mà có câu lị thiệp đại xuyên, vì thủ đoạn Hoán với thủ đoạn làm Tụy khác nhau, chỉ duy căn bản thời in nhau mà thôi.
Hai Quái từ chung nhau một câu vương cách hữu miếu mà khác nhau lị kiến đại nhân với lị thiệp đại xuyên, mới biết được ý thánh nhân khi viết Kinh, thiệt rất thâm diệu.
Bây giờ xem riêng sáu hào quẻ Hoán thời nghĩa tùy thì càng thêm phát minh.
Sơ là bắt đầu vào thì Hoán, nên chưa trước thủ thực hành, còn mong cứu chữa được Hoán, Nhị thời tấn vào giữa Nội Quái. Hoán mà chưa có thể cứu Hoán được rõ ràng. Tam thời gần đến đoạn giữa Hoán, mới bắt tay làm việc Hoán, nhưng phải tan tự mình tan đi nên nói rằng Hoán kì cung. Đến Tứ là vừa lúc trung gian thì Hoán, công việc Hoán đã đến lúc phát triển, nhưng phải tan tự bè riêng mình tan đi, nên nói rằng Hoán kì quần, phỉ di sở tư. Đến Ngũ thời công việc Hoán đã tới ngày thu công, tới lúc đó tất phải ban bố hiến pháp mới, tan sạch hết tiền của riêng nên nói rằng Hoán hạn đại hiệu, hoán vương cư. Chữ đại hiệu là không phải hiệu lệnh tầm thường, vương cư mà còn Hoán thời những cá nhân tư tích còn kể vào đâu. Theo công việc Hoán đến lúc đó thời những giống gì đáng tan, đã tan sạch ráo, vô số cái nhỏ tan, quay lại đúc nên cái lớn, vô số cái riêng tan, quay lại gây nên cái chung. Hoán chi cực mà Tụy, Tụy đến lúc đó mới nhóm được thiệt lớn. Xã hội kiến thiết, vũ trụ đại đồng, rặt là công hiệu kết quả của Hoán.
60. QUẺ THỦY TRẠCH TIẾT
Khảm trên; Đoái dưới
Quẻ này là quẻ Thủy Trạch Tiết. Đoái hạ cũng là Nội Đoái, Khảm thượng cũng là Ngoại Khảm. Khảm thủy, Đoái trạch, nên tên quẻ đọc bằng Thủy Trạch Tiết.
TỰ QUÁI
Tự quái: Hoán giả li dã, vật bất khả dĩ chung li, cố thụ chi dĩ Tiết.
序卦: 渙者離也, 物不可以終離, 故受之以節.
Sau quẻ Hoán tiếp lấy quẻ Tiết là vì cớ sao?
Trước kia là quẻ Hoán, Hoán nghĩa là lìa tan; vật không thể lìa tan được mãi, tất phải có cách ngăn đón lại vậy, nên sau quẻ Hoán tiếp lấy quẻ Tiết.
Tiết có hai nghĩa: Một nghĩa Tiết là mắt, như trúc tiết, tùng tiết, v.v. Lại một nghĩa nữa, Tiết là có chừng mực, cũng có nghĩa là dè đặt, như tiết kiệm, tiết chế, v.v.
Theo về thể quẻ, trên chằm có nước, vì chằm có chừng mực mà nước trên chằm không tràn chảy ra được, tượng là có tiết chế nên đặt tên quẻ bằng Tiết.
SOÁN TỪ
Tiết, hanh, khổ tiết, bất khả trình.
節亨, 苦節, 不可貞.
Việc trong thiên hạ, quý nhất là vừa đắc trung, bất cập vẫn là không hay mà thái quá cũng là dở). Vì sợ đến nỗi thái quá mà phải sinh ra hạn tiết. Đã hạn tiết tức là đắc trung mà đã đắc trung thời không việc gì chẳng hanh thông, nhưng mà cái hạn tiết đó, chỉ vì sợ thái quá mà phải Tiết, mà lại ở bản thân Tiết cũng vừa nên đắc trung. Nếu Tiết mà thái quá thời Tiết đó lại bất cận nhân tình, tượng như đồ ăn mà chỉ thiên về một vị đắng, quá đắng tức là khổ. Tiết đã đến nỗi khổ, tạm thì còn khá, nếu cố thủ làm thường, cũng là trái với trung đạo. Vì trái với trung đạo thời người ta không thể thường hành được, nên lại nói rằng: Khổ tiết, bất khả trinh.
Thanh như ông Bá Di mà thầy Mạnh thấy làm ải, liêm như thầy Trần Trọng Tử mà thầy Mạnh cũng nói Tất dẫn nhi hậu khả 必引 c 後可. Chữ trinh đây chỉ học trinh là cố thủ, không đọc nghĩa trinh là chính. Nói về phẩm hạnh của cá nhân thời khổ tiết vẫn là chính. Nói về thường lí cả xã hội thời khổ tiết không thể cố thủ được.
Quái từ nói rằng bất khả trinh là ý muốn cho người biết cho vừa đắc trung mà không cưỡng người ta làm khổ tiết. Dịch là nói chung về xã hội, chẳng phải nói riêng về cá nhân. Vì vậy nên đã nói rằng tiết hanh lại nói rằng khổ tiết bất khả trinh.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Tiết hanh, cương, nhu phân, nhi cương đắc trung, khổ tiết bất khả trinh, kì đạo cùng dã. Duyệt dĩ hành hiểm, đang vị dĩ tiết, trung chính dĩ thông. Thiên địa tiết nhi tứ thì thành, tiết dĩ chế độ, bất thương tài, bất hại dân.
彖曰: 節亨, 剛柔分而剛得中. 苦節不可貞其道窮也. 說以行險, 當位以節, 中正以通. 天地節 而四時成.
節以制度, 不傷財, 不害民.
Soán viết: Tiết hanh, cương, nhu phân, nhi cương đắc trung.
Tiết sở dĩ được hanh, bởi vì theo như thể quẻ, cương ba hào, nhu cũng ba hào, cương, nhu cân địch với nhau, không bên nào quá mà lại tốt thứ nhất là hào Nhị, hào Ngũ, thảy dương cương đắc trung. Đã có tài cương trung, tất nhiên xử sự được trung tiết mà việc gì cũng hanh thông.
Khổ tiết, bất khả trinh, kì đạo cùng dã.
Việc sở dĩ phải tiết là cốt cho người ta thông hành được, bây giờ tiết mà đến nỗi quá, thành ra khổ tiết, bất khả trinh. Thế thời chỉ độc thiện trong một mình mà không thể thông hành được trong thiên hạ. Tiết mà không hanh thời đạo Tiết ấy phải cùng vậy.
Duyệt dĩ hành hiểm, đương vị dĩ tiết, trung chính, dĩ thông.
Đây lại lấy thể quẻ, đức quẻ thích lời quẻ.
Khảm ở Ngoại Quái là có tượng hiểm, Đoái ở Nội Quái là có tính duyệt; dùng một cách hòa duyệt mà đi giữa chốn hiểm, thế là Tiết được tính sợ hại.
Cửu Ngũ ở vị tôn mà lại có đức trung chính. Thế là đương vị mà hay tiết chế, có đức trung chính mà làm nên thông.
Ba câu này có ba nghĩa tiếp nhau. Hễ người ta đến khi hành hiểm, tất rụt rè quá sợ thành ra người quá khiếp, bây giờ lấy cách hòa duyệt thái nhiên mà đi giữa lúc hiểm, đó là Tiết được thói khiếp.
Người ta ở vị sùng cao thường đến nỗi kiêu căng phóng túng, bây giờ ở vị chí tôn mà vẫn cứ dè dặt giữ gìn, đó là Tiết được thói kiêu.
Tóm hai câu ấy là đạo Tiết được rất hay, nhưng sở dĩ được như thế là vì có đức trung chính nên Tiết mà được thông. Câu trung chính dĩ thông là đỡ cả hai câu trên (Thông là nghĩa chữ hanh).
Thiên địa tiết nhi tứ thì thành, tiết dĩ chế độ, bất thương tài, bất hại dân.
Đây là thừa Thượng văn mà nói rộng cho hết đạo Tiết, công việc làm Tiết đó, há phải việc người mà thôi rư? Tức như, khí vận của trời đất, mùa nắng, mùa mưa, cơn nóng, cơn lạnh, tất thảy có chừng mực. Vậy nên Thu không Thu hoài, Xuân không Xuân mãi mà bốn mùa mới nên. Trời đất như thế nên thánh nhân bắt chước trời đất mà trì nước, trì dân, bày đặt ra mỗi thức chế độ, để hạn tiết tình dục của loài người, có tiêu phí mà không xa xỉ, có công tác mà không quá lao. Vì có tiết chế như thế nên không tổn hại đến của, không tàn bạo đến dân. Sở dĩ kết quả được như thế là chỉ tạo nhân vì thay tiết mà thôi. Tiết dĩ chế độ, bất thương tài, bất hại dân, ba câu ấy ý nghĩa liên tiếp với nhau.
Bởi vì hạn tiết bằng chế độ nên tham quan ô lại, phải nép vào trong phạm vi hạn tiết mà kết quả được bất thương tài; của công đã không hao tổn thời của tư càng ngày càng dồi dào, cách sinh hoạt của nhân dân mới khỏi sự nguy hiểm mà kết quả được bất hại dân. Sách Luận Ngữ có câu Tiết dụng nhi ái nhân 節用而愛人, nghĩa là có dè đặt ở việc tiêu dùng mà sau mới có tiền của làm được việc yêu người, chính là nghĩa quẻ Tiết.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Trạch thượng hữu thủy, Tiết. Quân tử dĩ chế số độ, nghị đức hạnh.
象曰: 澤上有水, 節. 君子以制數度, 議德行.
Ở trên Đoái trạch có Khảm thủy, tượng là nước đựng vào trong chằm, chằm có hạn tiết mà nước khỏi chảy tràn, ấy là tượng quẻ Tiết. Quân tử xem tượng ấy mà nghĩ ra một cách để hạn tiết cho loài người. Hễ những giống vật mà cần nhu dụng ở nhân gian, có lớn nhỏ, có nặng nhẹ, có cao thấp, có tốt xấu, có giá đắt, có giá rẻ, tất thảy chế ra là từ số từ độ, theo sở năng của mỗi người mà phân cấp cho cái sở nhu, không để ai quá ít mà thiệt, không để ai quá nhiều mà hơn, chiết trung ở số độ, chính là phương pháp làm Tiết đó vậy.
Nếu không số độ thời chừng mực lấy vào đâu, nên phải chế làm số độ, nhưng chỉ chế số độ mà thôi thời vừa hạn tiết được phần hình thức mà không hạn tiết được phần tinh thần, vật chất hữu hạn mà nhân dục vô nhai thời tiết làm sao nổi nên lại phải cân lường về phần đức hạnh.
Đức là xem ở tâm tính, hạnh là xem ở việc làm, bàn bạc cân nhắc về hai điều đó. Đức hạnh có phần tốt thời hưởng thụ có hơi hơn; đức hạnh có phần kém thời hưởng thụ có hơi sút; lấy đức hạnh làm giá trị, lấy số độ làm vật báu thù.
Sở dĩ hạn tiết như thế là muốn cho loài người vật chất với tinh thần thảy nạp vào trong vòng đạo đức, toàn xã hội mà ai nấy cùng trúng tiết cả. Thế đạo có lo gì chẳng hanh nữa đâu.
(Phận lượng nhiều ít gọi bằng số; phép tắc khuôn khổ gọi bằng độ; tâm lí tư tưởng gọi bằng đức; tài nghệ sự nghiệp gọi bằng hạnh. Chế là bày đặt cho có chương trình nhất định nghĩa là bàn xét cho được danh thực đúng nhau).
PHỤ CHÚ: Tượng Truyện quẻ Tiết nên tham quán với Tượng Truyện quẻ Khiêm.
Quẻ Khiêm thời biền đa ích quả, xứng vật bình thí; quẻ Tiết thời chế số độ, nghị đức hạnh. Nhưng bàn tóm lại thời tượng quẻ Khiêm là mục đích mà tượng quẻ Tiết là thủ đoạn. Vì muốn bớt chốn nhiều, thêm chốn ít, nếu không chế ra số độ thời nhiều, ít lấy đâu làm chứng, nên muốn đạt mục đích biền đa ích quả tất phải chế số độ. Vì muốn xứng phân lượng mỗi người mà thí dụ cho cân bằng, nếu không cân nhắc ở nơi đức hạnh thời kẻ hơn, người kém, kẻ thấp, người cao, lấy vào đâu mà bình xứng được. Vì muốn đạt mục đích xứng vật bình thí nên phải nghị đức hạnh. Chế số độ là thủ đoạn làm cho nhiều, ít có chừng mực, nghị đức hạnh là thủ đoạn khiến cho đại giá được công bình.
Xem góp cả hai tượng thời quy mô trì quốc bình thiên hạ, cũng đã quá phần nữa rồi.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Cửu: Bất xuất hộ đình, vô cựu.
初九: 不出戶庭, 無咎.
Ở vào thời Tiết là cốt làm sao cho đúng Tiết mới hay; nên đi mà đi thời đi là đúng Tiết, nên chỉ mà chỉ thời chỉ là đúng Tiết.
Sơ Cửu dương cương đắc chính ở về đầu thì Tiết, có nghĩa nên thủ thân tự trọng, chưa nên vội ra đi đâu, nên Hào từ nói rằng: Bất xuất hộ đình, vô cựu, nghĩa là đã Tiết tất phải cẩn thận từ lúc đầu, mới hay hoàn toàn ở lúc sau.
Tượng viết: Bất xuất hộ đình, tri thông tắc dã.
象曰: 不出戶庭, 知通塞也.
Ở đầu thì Tiết mà sớm lo cẩn thận cách hành động của mình thời bất xuất hộ đình là phải.
Nhưng không phải chỉ là một mặt chỉ mà thôi. Thì có khi thông khi tắc, khi tắc mà chỉ, khi thông mà hành, nên biết thông biết tắc mà tùy thì biến hóa, nếu chỉ một mực bất xuất hộ đình mà thôi cũng chưa phải đúng với đạo Tiết.
PHỤ CHÚ: Hệ tử thích Hào từ chỉ dụng nghĩa hai chữ bất xuất mà bỏ hai chữ hộ đình không nhắc đến; biết được thánh nhân học Dịch, chỉ cần học ý mà không cần học chữ, xin dịch ra đây cho tiện bể xem xét:
Hệ tử nói rằng: Việc họa hoạn trong đời, há phải vô cớ mà sinh ra đâu, tất từ ở ngôn ngữ mà gây ra múi. Làm vua mà ngôn ngữ bất mật thời đến nỗi mất tôi. Làm tôi mà ngôn ngữ bất mật thời đến nỗi mất thân. Gặp những việc mưu cơ càng nên bí mật. Nếu hở hang tiết lộ thời việc hỏng mà tai hại nảy ra. Vì thế nên quân tử thận mật mà không khinh dị xuất lời nói vậy.
Hào từ chỉ bảo người ta cẩn ở hành. Hệ tử thích nghĩa lại chú trọng ở cẩn ngôn, lấy chữ "mật" làm "tiết", so với Hào từ lấy chữ "chỉ" làm "tiết", hai nghĩa đắp đổi phát minh cho nhau, hay cẩn thận được ngôn, mới hay cẩn thận được hành, cũng chung vào trong đạo Tiết.
Thầy Nhan tại lậu hạng, thầy Nam Dung tạm phục bạch quê, cũng thảy là bất xuất hộ đình.
2. Cửu Nhị: Bất xuất môn đình, hung.
九二: 不出門庭, 凶.
Ở vào thì Tiết, vẫn lấy Tiết làm hay, nhưng đã gọi bằng Tiết, tất phải Tri thì thúc biến. Thì của Cửu Nhị đã khác với thì của Sơ Cửu; ở trên có hào Cửu Ngũ đồng đức với mình, lẽ nên đem thân ra giúp việc với Ngũ, huống gì Nhị ở giữa Nội Quái thời địa vị phận vị mình cũng không đáng làm khách bằng quan. Ai ngờ Nhị lại độc thiện kì thân, đóng cửa dấu mình mà không chịu chung gánh việc đời với Ngũ, té ra Nhị chỉ là một người trất ám, biết tắc mà không biết thông, gặp được thì khả hành mà cố làm cách chỉ. Thấy Sơ bất xuất hộ đình mà mình cũng bất xuất môn đình. Tiết mà dốt như thế, hung là đáng rồi. Chữ hung ở đây không phải là kết quả, chỉ là nói hành ví trái thì, tức là hung.
Nếu Nhan Tử mà gặp đời Vũ, Tắc, gặp được vua như Nghiêu, Thuấn mà không lo trị thủy cứu dân thời cách lậu hạng đan biều của Nhan Tử cũng có thể gọi bằng thất tiết.
Tượng Truyện hào Sơ đã nói rằng: Tri thông tắc. Thì Sơ nên tắc mà tắc, mới gọi rằng người biết thì, thì Nhị nên thông mà lại làm cách tắc, chính là người không biết thì.
Xưa có câu: “Khôn chết, dại chết, biết sống”. Biết tức là nghĩa chữ tri. Sơ vì tri tắc nên bất xuất hộ đình mà vô cựu; Nhị vì bất tri thông nên bất xuất môn đình mà hung. Khó vậy thay! Tiết mà biết thông đó vậy.
Tượng viết: Bất xuất môn đình, hung, thất thì, cực dã.
象曰: 不出門庭凶, 失時極也.
Cửu Nhị ở vào thì Tiết mà gặp được cương trung đồng đức như hào Cửu Ngũ, lẽ nên đem thân ra gánh việc đời. Nhị trở lại bất xuất môn đinh, Thì đến mà bỏ mất thì, thiệt đáng quá ngán cho Nhị vậy. Vì vậy mà Hào từ nói rằng: Hung.
3.Lục Tam: Bất tiết nhược tắc ta nhược, vô cựu.
六三: 不節若, 則嗟若, 無咎.
Lục Tam âm nhu mà lại bất trung chính, cưỡi hai hào dương cương mà lâm lấy Khảm hiểm, gặp hoàn cảnh như thế, vẫn dễ mắc tội lỗi, nhưng ở vào thì Tiết, nếu mình hay tiết lấy mình, còn may khỏi tội lỗi, nhưng mà nhân cách như Lục Tam, chẳng bao giờ tiết nổi. Ăn càn nói dở, rước vạ vào mình, tất đến nỗi than vãn đau đớn. Sự đó mình làm mình chịu, còn trách lỗi được ai. Nghĩa chữ vô cựu ở đây là nghĩa đặc biệt trong Kinh, xem Tượng Truyện thời hiểu.
Tượng viết: Bất tiết chi ta, hựu thùy cựu dã.
象曰: 不節之嗟, 又誰咎也.
Đã bất tiết thời đến nỗi ta, còn đổ lỗi cho ai được nữa. Chữ vô cựu ở các hào thời nghĩa là không tội lỗi gì, duy Hào từ Lục Tam quẻ Tiết với Lục Tam quẻ Giải thời là hựu thùy cựu dã, nghĩa là lại đổ lỗi cho ai đặng.
4- Lục Tứ: An tiết, hanh.
六四: 安節, 亨.
Lục Tứ nhu thuận đắc chính, trên thừa tiếp Cửu Ngũ, tự bản thân Tứ vẫn đã an ở chính mà địa vị Tứ lại vừa đúng gặp thì. Tiết vừa thích phải mà cứ thuận tiện làm, không cần phải miễn cưỡng. Thế là an tiết mà được hanh thông.
Hào từ này tinh thần chỉ tại chữ an, nghĩa là lấy Tiết làm thích, không phải kiểu sức mà làm. Thường tình người ta ở vào thì Tiết hay kiểu sức làm Tiết. Đã kiểu sức thời không được lâu dài nên Tiết mà không được hanh thông. Muốn được hanh thông, tất phải an tiết như Lục Tứ.
Tượng viết: An tiết chi hanh, thừa thượng đạo dã.
象曰: 安節之亨, 承上道也. Tứ hay an tiết mà được hanh là vì thuận thừa đạo cương trung của Cửu Ngũ vậy (Thượng là chỉ vào Cửu Ngũ).
5. Cửu Ngũ: Cam tiết, cát, vãng hữu thượng.
九五: 甘節, 吉, 往有尚
Chữ cam phản đối với chữ khổ.
Tiết mà lấy làm khó chịu thời gọi bằng khổ. Tiết mà xem bằng ngon ngọt thời gọi bằng cam. Toàn quẻ Tiết, duy Cửu Ngũ là rất tốt, thân Ngũ vừa ở vị chí tôn, lại đủ cả đức dương cương, trung chính, lấy một người tư cách rất cao, địa vị rất xứng mà làm chủ cho thì Tiết, Tiết tự một mình mà Tiết đến cả thiên hạ, chế ra số độ, nghị được đức hạnh, tự mình tiết mà mình vui, bảo thiên hạ tiết mà thiên hạ thuận, tiết bằng một cách ngon ngọt. Thế là cam tiết, chắc được tốt lành. Cứ như thế mà tấn hành, tất lại có công lớn mà đáng khen nữa.
Hào từ này chính đúng với Soán Truyện, trên kia Soán Truyện đã nói rằng: Đang vị dĩ tiết, trung chính dĩ thông, sở dĩ cam tiết mà cát là vì thế.
Tượng viết: Cam tiết chi cát, cư vị, trung dã.
象曰: 甘節之吉. 居位中也.
Vì địa vị sở cư của Ngũ, đã được vị chí tôn mà lại được trung đạo nên cam tiết mà cát. Ngũ đủ cả trung lại chính, nhưng Tượng Truyện chỉ nói một chữ trung. Vì Tiết quý nhất là trung. Chính mà quá trung cũng không phải đạo Tiết. Nếu đã trung tức là chính rồi, nên Tượng Truyện chỉ nói chữ trung.
6. Thượng Lục: Khổ tiết, trinh hung, hối vong.
上 六: 苦節, 貞凶, 悔亡.
Thượng Lục ở về cuối cùng thì Tiết là Tiết chi cực. Tiết cực là Tiết mà thái quá, quá Tiết tức là khổ tiết, hễ khổ tiết thời bất khả trinh, nên cố thủ lấy cách ấy mãi, tất đến nỗi hung (Trinh nghĩa là bền giữ).
Bây giờ nghĩ cách bổ cứu cho Thượng Lục: chỉ nên hối cải lỗi ấy, bớt thái quá mà làm cho thích trung, biết hối như thế thời hung họa tan mất được.
Chữ hối vong ở đây, với chữ hối vong ở mọi quẻ, văn tuy đồng mà ý khác nhau; hối vong ở mọi quẻ là những điều hối được vong, còn hối vong ở đây là biết hối thời vong được hung.
PHỤ CHÚ: Tiết vẫn là một đạo lí hay, nhưng cần phải đắc trung. Lục Tam bất tiết thời ta nhược mà mắc tội lỗi bất cập. Thượng Lục khổ tiết thời trinh hung là mắc lỗi thái quá.
Đức Khổng có nói quá do bất cập, thảy không phải là thiện đạo, chỉ duy đắc trung như Cửu Ngũ mới là cam tiết.
Tượng viết: Khổ tiết, trinh hung, kì đạo cùng dã.
象曰: 苦節貞凶, 其道窮也.
Tiết đã đến khổ là tiết cực rồi, còn cố thủ lấy khổ đó, tất nhiên không thể thông hành được, đạo ấy phải cùng vậy.
Nên Hào từ nói rằng: Trinh hung. Hào từ này rất giản đơn mà ý nghĩa rất sâu. Tiết vẫn nên trinh mà trinh lấy cái khổ thời không hay. Tiết đáng không hối, nhưng khổ thời phải hối. Hối cái khổ mà làm cho vừa đến cam thời hung mới [hết] được. Nếu nhận lầm chữ hối dính với chữ tiết thời thánh nhân có bao giờ dạy cho người ta bất tiết đâu. Duy khổ ở tiết thời mới nên hối.
PHỤ CHÚ: Quẻ Tiết ở sau Hoán là Dịch lí rất hay, quốc gia xã hội đã trải qua một cuộc hoán tán rồi. Phong tục đồi bại đã quá nhiều, công nghệ hoang phế đã quá lắm, trật tự đã biết bao nhiễu loạn, kinh tế đã biết bao cùng quẫn, sinh sản lực tất kém sút hơn xưa, đạo đức mới toan đánh đổ cái cũ. Nếu khi ấy mà không dùng đạo Tiết, sống xa xỉ ngày càng lung tung, thế vật chất ngày càng bành trướng làm nguy hiểm cho thế đạo biết đến chừng nào.
Vậy nên sau thì Hoán rất cần là phải có Tiết, đường tài chính có tổn tiết mới hay, đường giáo dục phải tiết văn cho vừa thích, ở quân luật phải tiết chế cho nghiêm minh, ở triều đình thời phải sùng trọng danh tiết, công việc làm Tiết rất nhiều, nhưng tổng chi, chỉ là bổ tệ ở sau lúc Hoán.
Nhưng mà Tiết tất phải cho đắc trung, quá khổ thời nhân tình bất kham, quá cam thời nghĩa lí không đúng, nên trong sáu hào, theo địa vị mỗi hào mà cốt cho đáng vị, đáng vị tức là hợp thì.
Vị mỗi hào chính là thì mỗi hào. Tiết đúng với thì thời hay, Tiết không đúng với thì thời không hay.
Sơ Cửu, Lục Tứ, Cửu Ngũ, rặt đúng vị mà Tiết đúng với thì nên Ngũ cát, Tứ hanh, Sơ vô cựu. Cửu Nhị, Lục Tam rặt là bất đáng vị mà Tiết trái với thì, vậy nên Nhị hung mà Tam ta nhược.
Lại xem ở mỗi hai hào dếnh nhau thời hào nghĩa trái nhau. Sơ dếnh với Nhị, Sơ bất xuất hộ đình thời vô cựu, Nhị bất xuất môn đình thời lại hung. Đó là Nhị trái với Sơ. Tam dếnh nhau với Tứ, Tứ đắc chính thời là an tiết, Tam bất chính thời bất tiết. Đó là Tam trái với Tứ. Ngũ với Thượng dếnh nhau, Ngũ cương mà đắc trung thời Tiết mà cam, Thượng quá trung thời tiết mà khổ, ấy là Thượng trái với Ngũ. Mỗi hai hào dếnh nhau mà vẫn hai hào trái nhau. Thánh nhân sở dĩ bày đặt như thế, há phải xuyên tạc đa sự đâu.
Than ôi! Loài người phức tạp, vật tình bất tề, tiết vẫn là hay mà không thể cấm người ta toàn không bất tiết, mà huống gì thì Hoán vừa qua, đạo Tiết chưa thịnh làm thế nào mà khỏi trái nhau rư?
Thánh nhân chỉ duy đem chân lí mà bày vẽ cho người ta, ai hay thời chứ, ai dở thời dè. Tiết rư? Bất Tiết rư? Thời tùy ở người học Dịch.
61. QUẺ PHONG TRẠCH TRUNG PHU
Tốn trên; Đoái dưới
Quẻ này là quẻ Phong Trạch Trung Phu. Đoái hạ cũng là Nội Đoái, Tốn thượng cũng là Ngoại Tốn. Tốn phong, Đoái trạch, nên tên quẻ đọc bằng Phong Trạch Trung Phu.
TỰ QUÁI
Tự quái: Tiết nhi tín chi, cố thụ chi dĩ Trung Phu.
序卦: 節節信之, 故受之以中孚.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Tiết tiếp lấy quẻ Trung Phu là vì cớ sao?
Trên đây là quẻ Tiết, Tiết nghĩa là mỗi việc phải có tiết chế. Đã định ra tiết chế, tất phải người trên tín thủ, người dưới tín tòng. Tiết chẳng phải giả dối mà xong. Vậy nên sau quẻ Tiết, tiếp lấy quẻ Trung Phu. Trung Phu nghĩa là đức tín chứa trong lòng vậy.
Quẻ này Nội Quái hai hào dương, Ngoại Quái hai hào dương thảy là trung trực, chính giữa hai hào âm lại là trung hư.
Trung hư là trong lòng không trộn vào tư dục, trung thực là trong lòng đầy chứa những chân tính.
Vì trung hư nên không có tiên nhập vi chủ mà làm được gốc cho tín. Vì trung thực nên không hư ngụy trộn vào mà làm được chất có tín. Đủ cả hai tên ấy mới đặt nghĩa quẻ bằng Trung Phu.
Phu nghĩa là tin mà gốc trong lòng thời đức tin mới chắc chắn, cũng in như nghĩa chữ Chí thành.
SOÁN TỪ
Trung Phu, đồn ngư cát, lị thiệp đại xuyên, lị trinh.
中孚, 豚魚吉, 利涉大川, 利貞.
Chữ Trung Phu ở Quái từ này kể tên quẻ mà nói luôn cả nghĩa quẻ, trong lòng có đức chí thành, ấy là Trung Phu.
Hễ chí thành thời không gì chẳng cảm động được. Ví dầu ngu táo như con heo, minh ngoan như loài cá là một vật rất khó cảm động, nhưng nếu phu tín chi cực thời đầu đồn ngư cũng cảm động được (Đồn là heo, ngư là cá).
Tín thành mà đến nỗi heo cá cũng phải nghe theo, còn tốt gì hơn. Vả lại, hiệu quả vì thành tín mà được đó, chẳng những lúc bình thường vô sự mà thôi, dầu đến lúc nguy hiểm gian nan, tượng như vượt qua sông lớn, cũng có thể cậy vào tín thành mà dẹp được sóng gió, công dụng của Trung Phu chẳng lớn lắm hay sao.
Nhưng mà gọi bằng Trung Phu đó, há phải thì gian ngắn ngủi, đường lối sai lầm mà được rư. Tất phải tin nhau bằng việc chính, và lại tin thật cho hữu hằng, chính là hữu hằng, tức là trinh, trinh mới là Trung Phu mà Trung Phu tất nên như thế.
PHỤ CHÚ: Nghĩa chữ Trung Phu gộp cả trung hư với trung thực. Trung có hư thời mới đặt thành tín vào được. Trung có thực thời giả dối mới không lọt vào. Nói tắt lại, chỉ hai chữ trung tín, nhưng mà lại kết thúc lấy chữ trinh. Bởi vì trong loài người có một hạng người trung tín mà không phải chính, tỉ như: Đạo tặc vì tư lợi mà tin nhau, nam nữ vì tà dâm mà tin nhau, họ chẳng phải là chẳng trung tín, nhưng cách trung tín đó lầm đường lạc lối, kết quả thời hữu thỉ vô chung; thường thường vì tạo nhân đã ác mà kết quả cũng ác. Đó chính là phu mà bất trinh, cũng không gọi bằng Trung Phu được.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Trung Phu, nhu tại nội, nhi cương đắc trung, duyệt nhi tôn, phu, nãi hóa bang dã. Đồn ngư, cát, tín cập đồn ngư dã. Lị thiệp đại xuyên, thừa mộc chu hư dã. Trung Phu dĩ lị trinh, nãi ứng hồ thiên dã.
彖曰: 中孚, 柔在內而剛得中. 說而巽, 孚乃化邦也, 豚魚吉, 及豚魚也, 利涉大川, 乘木舟虛 也,
中孚以利貞, 乃應乎天也.
Soán viết: Trung Phu, nhu tại nội, nhi cương đắc trung.
Quẻ này sở dĩ gọi bằng Trung Phu là vì theo toàn thể quẻ thời hào Tam, hào Tứ là âm nhu mà ở chính giữa là nhu tại nội. Cửu Nhị là dương cương mà ở giữa Hạ Quái, Cửu Ngũ là dương cương mà ở giữa Thượng Quái là cương đắc trung.
Nhu tại nội là trung hư, cương đắc trung là trung thực. Vậy nên, tên quẻ gọi bằng Trung Phu.
Duyệt nhi tốn, phu, nãi hóa bang dã.
Theo như thể quẻ, trên Tốn dưới duyệt, tượng là kẻ trên có chí thành mà thuận tốn với kẻ dưới mà dưới có chí thành phục tòng với kẻ trên. Thượng hạ giao phu mới cảm hóa được tất thảy bang quốc.
Đồn ngư cát, tín cập đồn ngư dã.
Đồn là một giống chí ngu, ngư là giống chí xuẩn mà thành tín còn cảm động tới nơi, thời trong thiên hạ không giống gì chẳng cảm động được. Vậy nên nói rằng: Đồn ngư cát.
Câu tín cập dồn ngư là hình dung hiệu lực của tín thành. Ngày xưa, ông Hàn Xương Lê làm bài hịch tế cá sấu mà cá sấu phải bỏ đi. Ông Hồ Ba đánh đờn sắt mà cá bơi chung quanh lại nghe, cũng tương tự như Quái từ đây.
Lị thiệp đại xuyên, thừa mộc chu hư dã.
Thuyền không rỗng trong lòng mà cưỡi qua sông thời không lo gì chìm đắm, người hư minh trong lòng mà ứng phó với nguy hiểm thời dầu chốn nguy hiểm cũng hóa ra an bình, nên nói: Lị thiệp đại xuyên, thừa mộc chu hư dã.
Trung Phu dĩ lị trinh, nãi ứng hồ thiên dã.
Đã Trung Phu mà hợp với chính đạo thời chẳng những ở gần hợp với nhân đạo mà thôi, dầu xa lớn đến như thiên đạo cũng thuận ứng được.
Sách Trung Dung có câu: Thành giả thiên chi đạo 誠者天之道也, đạo trời cũng chí thành mà thôi nên nói rằng: Trung Phu dĩ lị trinh, nãi ứng hồ thiên.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Trạch thượng hữu phong, Trung Phu. Quân tử, dĩ nghị ngục hoãn tử.
象曰: 澤上有風, 中孚. 君子以議獄緩死.
Trên chằm có gió, gió cảm động được nước, tượng như lòng thành thực cảm động được người nên gọi bằng Trung Phu. Quân tử xem tượng ấy nên lấy tấm lòng trung thành mà xử việc trong thiên hạ, mà việc lớn thứ nhất là việc hình ngục, gốc ở tấm lòng hiếu sinh, muốn cho người tất thảy khỏi chịu tử hình, gặp khi cực bất đắc dĩ mà mình phải dụng tử hình, cũng hết sức bàn đi thẩm lại, trong chồn tử mà cầu cho nó được sinh.
Nghị nghĩa là bàn; ngục chưa quyết thời phải nghị mà cầu được cách khoan giảm; hoãn nghĩa là khoan; ngục là quyết rồi, nhưng còn hoãn là mong cho gặp được dịp ân xá. Tổng chi, chí thành thương xót, chỉ cầu cho người khỏi thác oan, mới được đành lòng. Đó là một việc Trung Phu của quân tử.
PHỤ CHÚ: Sách Chu Lễ ở thiên Thu Quan: Hễ có những hình ngục nặng, trước hết vua thẩm đoán, lại ủy quyền cho quan Tư Khấu thẩm đoán lần thứ hai, lại ủy quyền cho quan Tam Công thẩm đoán lần thứ ba. Đó là nghị ngục.
Một việc ngục mà thẩm nghị đến ba lần, ngục đã quyết định rồi, nhưng còn phải hoãn lại một tuần mà hội đồng cả toàn thể hình quan thẩm đoán lại, nhưng chưa thành hình liền, lại trải qua hai tuần nữa mà hội đồng toàn thể hình quan thẩm đoán lại, đến ba tháng mới tâu lên vua quyết định ngày hành hình, một cái án tử hình mà hoãn lại trải qua ba lần thẩm nữa, chỉ trông mong cho người bị tội đó khỏi bị chết oan, tỏ rõ lòng nhân ái, trung hậu. Vì vạn bất đắc dĩ mà phải có tủ hình, không bao giờ lấy việc giết người làm oai.
Hiện đời bây giờ, các học giả Âu Châu đã nhiều người xướng ra thuyết bỏ tử hình, nhưng xem tình hình xã hội ở hiện thì, nhà ngục tối hơn mây mù, mạng người rẻ hơn rơm cỏ, biết bao giờ thực hiện được học thuyết bỏ tử hình. Chỉ trông mong cho những nhà cầm quyền chính trị, được tâm lí nghị ngục hoãn tử khá nhiều, cũng đã may lắm.
Trong Dịch, Tượng Truyện nói về hình ngục gồm có năm quẻ: Quẻ Phệ Hạp thời nói rằng Minh phạt sắc pháp; quẻ Bĩ thời nói rằng Vô cảm chiết ngục; quẻ Phong thời nói rằng Chiết ngục trí hình; quẻ Lữ thời nói rằng Minh thận dụng hình, nhi bất lưu ngục.
Bôn quẻ ấy thảy thủ tượng bằng lị minh là lấy chữ minh làm trọng. Duy đến quẻ Trung Phu thời nói rằng Nghị ngục hoãn tử thời chuyên trọng ở chữ thành.
Tóm xem cả Tượng Truyện năm quẻ thời nhà làm việc hình ngục nên có lòng chí thành thương người như tượng quẻ Trung Phu, mà đến khi thẩm đoán, tất phải có đức minh như bốn quẻ trên. Lấy thành làm căn bản, lấy minh làm thủ đoạn thời dầu chưa đến ngày bỏ sạch tử hình, nhưng loài người may cũng bớt được số người chết oan, chính là ơn các bậc thành và minh đó vậy.
Thánh nhân vì bốn quẻ trên chuyên chú trọng đức minh, nên ở quẻ Trung Phu lại chú trọng đến đức thành.
Minh mà chẳng thành tâm, e sức minh có khi lạm dụng, thành mà không minh sát, e thành có lúc mắc lừa. Thành với minh thảy được hoàn toàn viên mãn, việc hình ngục mới chắc được công bình. Đọc hết mấy bộ sách hình luật, trước xin đọc đến năm Tượng Truyện ấy.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1.Sơ Cửu: Ngu, cát, hữu tha, bất yên.
初九: 虞吉, 有他, 不燕.
Sơ Cửu bắt đầu vào Trung Phu mà lại chính ứng với Lục Tứ. Tứ âm nhu đắc chính là một người đáng tin của Sơ, nhưng mà người làm việc thiên hạ, ai chẳng hay ở lúc đầu mà ít người hay ở lúc cuối.
Vậy nên khi bắt đầu như hào Sơ, tất phải tường tận thẩm sát, người mình tin đó, đạt chắc đáng tin thời mình mới tin mà đã tin rồi chắc phải chuyên nhất, như thế là ngu thời cát.
Ngu nghĩa là đong lường. Đong lường đã chắc chắn thời tín cần phải chi thành. Nếu rày đây mai đó, xu hướng lại xoay về ngả khác. Tâm trí đã bất định như thế, phương châm đã hỏng thời mục đích cũng chẳng tới làm sao mà an thân được (Yên nghĩa là an).
Đại Học có câu:
Biết được chốn nên chỉ mà sau mới có định, định mà sau mới hay tĩnh, tĩnh mà
sau mới hay an (Tri chỉ nhi hậu hữu định. Định nhi hậu năng tĩnh. Tĩnh nhi hậu
năng an. An nhi hậu năng lự. Lự nhi hậu năng đắc 知止而後能定.
定而後能靜. 靜而後能安. 安而後能慮. 慮而 後能得).
Ý nghĩa Hào từ đây cũng như Kinh văn Đại Học, Ngu mà cát là tri chỉ mà được định, tĩnh, an.
Hữu tha thời bất yên là không tri chỉ mà định được, tất nhiên không được tĩnh mà an. Còn như Sơ với Tứ ứng nhau, chẳng qua theo tượng bản hào mà nói cho có chứng cớ, chứ như Dịch lí thời chẳng cần câu nệ vào tượng.
Kì thực đạo lí trong thiên hạ, vô luận việc gì cũng phải tất phải cẩn thận thương xác từ lúc đầu, mưu thỉ đã chắc chắn vững vàng thời lại nên nhất định cho tới lúc an, chính là ý nghĩa của Hào từ này vậy.
Tượng viết: Sơ Cửu ngu cát, chí vi biến dã.
象曰: 初九虞吉, 志未變也.
Sơ Cửu sở dĩ được Cát là vì chí Trung Phu đã chắc chắn từ lúc đầu mà không thay đổi thời khỏi được lỗi, vì hữu tha bất yếu.
PHỤ CHÚ: Chữ ngu có hai nghĩa: Một nghĩa, ngu là đong lường, tức là ngu đạc; một nghĩa, ngu là ngăn ngừa, tức là ngu phòng.
Ở quẻ Tụy đã có câu “giới bất ngu” là thuộc về nghĩa sau. Chữ ngu ở đây kiêm cả hai nghĩa, ngu là đạc, cũng ngu là phòng.
Việc nhà phải đề phòng từ lúc đầu nên hào Sơ quẻ Gia Nhân thời nói “nhàn hữu gia”.
Lòng người cũng phải đề phòng từ lúc đầu, đầu đã không Trung Phu, còn gì tin được, nên hào Sơ đây nói "ngu cát" mà Tượng Truyện lại có câu "chí vị biến" là vì đề phòng chí nó có biến chăng nên phải dùng bằng cách ngu.
2. Cửu Nhị: Minh hạc tại âm, kì tử họa chi, ngã hữu hảo tước, ngô dữ nhĩ mị chi.
九二: 鳴鶴在陰. 其子和之, 我有好爵, 吾與爾靡之.
Cửu Nhị là làm thực cho Trung Phu, trên ứng với Cửu Ngũ, cũng là làm thực cho Trung Phu, hai bên thảy có đức dương cương, chất chứa lòng thành thực trong, bên này đem chí thành mà cảm, bên kia lấy chí thành mà ứng, tâm lí tương đắc, xuất ở tự nhiên, nên Hào từ mới đặt lời thí dụ để hình dung tinh thần ấy. Tỉ như, con hạc mẹ gáy ở chốn bóng nhâm mà con nó ở ngoài nghe tiếng mẹ liền gáy mà họa lại ngay, vì đồng thanh với nhau nên ứng thanh cũng chóng.
Lại tỉ như, ta có chén rượu ngon, tuy ta chưa mời tới mày mà đã chắc ta với mày thảy ríu rít với nhau, in như uống chung chén rượu ngon đó là vì ý muốn in nhau thời ta cũng như mày mà thôi.
Hào từ chỉ dùng bằng cách thí dụ nên nói rằng: Hạc minh tại âm, kì tử họa chi, ngã hữu hảo tước, ngô dữ nhĩ mỵ chi.
Còn như chân ý nghĩa thời Hệ tử đã giải thích rõ ràng, xin tiện dịch ra đây:
Hệ tử nói rằng: Làm một người quân tử, dầu chỉ trong nhà mình chưa cần đi tới đâu, nhưng lời nói của mình nhả ra, đúng vào lời lành thời bỗng chốc người ngoài thiên lí đã ứng vào ngay, huống gì kẻ ở gần chung quanh mình nữa rư?
Ỏ trong nhà mình mà tiếng nói mình nhả ra, trái với lẽ lành thời bỗng chốc người ngoài muôn dặm đã chống cãi ngay, huống gì người ở chung quanh mình nữa rư?
Lời nói giữa mình xuất ra thời tức khắc gác vào nhân dân, công việc làm của mình, tự ở chốn gần tuyên bố ra thời tức khắc ảnh hưởng đến chốn xa.
Lời nói, nết làm là cái máy chốt của quân tử, cậy đó mà khép mở khắp trong ngoài. Máy chốt dùng được đúng, thời danh dự tới mình, cái máy chốt dùng đã sai, thời ác danh tới mình, cái máy chổt chỉ phát ra thiệt là chủ chốt cho vinh hay nhục vậy.
Lời nói nết làm ra tinh thần tác dụng của quân tử, để mà cảm động đến trời đất đó, vậy há lẽ chẳng cẩn thận mà được rư?
PHỤ CHÚ: Hệ tử thích nghĩa, ngó với nghĩa đen của Hào từ, toàn không dây dính. Nếu chúng ta chỉ đọc lời Đức Khổng, vẫn đạo lí đã rất hay, nhưng đem giải thích với Hào từ thời lại rất có thứ vị.
Tiếng gáy tỉ dụ bằng tiếng nói, tiếng nói mà thích vào tai người nghe, tức là đồng thanh tương ứng, có khác gì minh hạc mà kì tử họa đâu.
Nết làm mà thuận với lòng người, tức là sở dục dự tụ, có khác gì hữu hảo tước mà ngô dữ nhĩ mỵ chi đâu.
Lấy chữ ngôn, tỉ dụ bằng minh; minh nghĩa là tiếng gáy. Lấy chữ hạnh, tỉ dụ bằng tước; tước nghĩa là chén rượu ngon. Lấy chữ ứng, chiếu vào chữ họa, chữ mị. Họa nghĩa là gáy theo; mị nghĩa là ríu rít, cũng có ý là say mến.
Nói trái lại, tiếng gáy không phải tiếng loài nó thời nó không họa theo, rượu của mình vẫn dở thời chắc không ai thèm. Ngôn hạnh mình đã bất thiện thời ai chịu ứng cho; trên mặt chữ tuy khác nhau mà tinh thần đạo lí vẫn in nhau.
Nên sách Khổng Tử với sách Chu Công, văn tự thường không giống nhau mà ý nghĩa thời tuyệt đối in nhau, chúng ta đọc Dịch nên học lấy bộ óc ấy. Nếu Chu Công nói hạc, nói tước mà Khổng Tử cũng nói hạc, nói tước, còn có thú vị gì nữa.
Tượng viết: Kì tử họa chi, trung tâm nguyện dã.
象曰: 其子和之, 中心愿也.
Minh hạc tại âm mà kì tử tại ngoại, nghe tiếng gáy mà họa ngay, tượng là tấm lòng Trung Phu sẵn muốn như thế nên không ai chống cãi. Cửu Nhị đắc trung, Cửu Ngũ cũng đắc trung lại ở vào thì Trung Phu, sở dĩ nói rằng: trung tâm.
3. Lục Tam: Đắc địch, hoặc cổ, hoặc bãi, hoặc khấp, hoặc ca.
六三: 得敵, 或鼓或罷, 或泣或歌.
Hào Lục ở vị Tam là âm nhu bất chính, lại chính ứng với Thượng Cửu là người đối địch với mình.
Nhưng Thượng lại cương mà bất trung, mà theo về thể quẻ thời Tam là duyệt chi cực, Thượng là tốn chi cùng, Tam bất trung chính làm bạn với Thượng bất trung chính. Tam duyệt cực mà làm bạn với Thượng tốn cùng, hai anh ăn ở với nhau không chút gì tinh thành chân thực mà chỉ là hình thức thay đổi luôn, hoặc khi dóng múa lung tung (Cổ nghĩa là dóng múa), hoặc khi rụng rời như chết (Bãi nghĩa là rụng rời), hoặc khi khóc ù, hoặc khi hát bướng.
Cách ăn ở như thế, tổng chi là hoảng hốt bất thường, khi vui mừng đã vô lí mà khi thương khóc cũng không đúng gì, chỉ là tội tại bất trung, bất chính. Chữ "bất yên" ở hào Sơ, đem tặng cho hào Tam đúng lắm (Địch nghĩa là người đối địch với mình, chi vào hào Thượng; hoặc nghĩa là tình cờ, có ý là gặp sao làm vậy).
Tượng viết: Hoặc cổ, hoặc bãi, vị bất đáng dã.
象曰: 可鼓或罷, 位不當也.
Vui buồn vô thường như cách Lục Tam là vì địa vị Lục Tam xử lấy chốn bất chính, mình đã bất trung chính mà bạn lại bất trung chính, thảy là vị bất đáng nên hai anh tin nhau mà hiện ra quái trạng như thế.
4. Lục Tứ: Nguyệt cơ vọng, mã thất vong, vô cựu.
六四: 月几望, 馬匹亡, 無咎.
Lục Tứ làm chủ cho trung hư mà thành ra quẻ Trung Phu, ở được vị chính lại thân cận với quốc trưởng là hào Ngũ, Ngũ hết sức tín nhậm Tứ, Tứ là vị cực nhân thần, vinh thịnh ngó đã gần cực rồi, tượng như mặt trăng đã gần đến hôm rằm.
Vì Tứ là âm nhu đắc chính, không dám tự xử lấy phần dinh mãn nên chỉ cơ vọng mà thôi; nếu Tứ mà dinh mãn thời trăng đã rằm rồi, lại là việc đáng nguy cho Tứ. May Tứ không thế, chỉ gần đến mặt trăng vừa rằm thời đã tri chỉ tri túc, điều đó là rất hay cho Tứ.
Chẳng những thế mà thôi, Tứ vẫn chính ứng với Sơ, hai anh cặp kè nhau, tượng như một cặp ngựa, nhưng Tứ biết thời thế, biết phục tòng với đạo lí nên nhất tâm tín tòng với Ngũ, mà bỏ mất Sơ, tượng như ngựa bỏ mất con cặp đôi (Thất nghĩa là cặp đôi, mất con ngựa cặp đôi, ý là bỏ mất Sơ).
Vì Tứ đã tín Ngũ, mà tuyệt giao với Sơ thời nghĩa Trung Phu được chuyên nhất mà viên mãn, như thế thời không tội lỗi gì.
Mã thất vong ở đây, cũng tượng như thất tiểu tử ở quẻ Tùy. Thất tiểu tử cũng là bỏ Sơ, thất chính sở dĩ làm ra đắc; mã thất vong cũng là bỏ Sơ, vong chính sở dĩ làm ra tồn. Dịch biến thông là như thế.
PHỤ CHÚ: Hào từ ở đây, theo về sử nước Tàu thời như ông Y Doãn, trả chính quyền cho vua Thái Giáp mà trở về cày ruộng. Theo về sử nước ta như ông Trần Hưng Đạo chỉ làm đến Thượng Quốc Công, không nghe lời An Sinh Vương giành lấy ngôi vua. Đó là giữ nghĩa câu nguyệt cơ vọng. Lại như đảng Thôi, Trần rất mạnh ở nước Tề, khuyên Án Tử vào mà Án Tử không chịu vào. Như sử nước ta thời đời nhà Mạc đương thịnh mà ông Phùng Khắc Khoan không chịu theo. Kết quả thời Thôi, Trần bại mà Ái Tử thời được hiển danh; Mạc thị vong mà Phùng thời nên được sự nghiệp. Đó nghĩa là câu: Mã thất vong.
Trung Phu lị trinh mới được cát. Dịch há phải nói dối với ai đâu.
Tượng viết: Mã thất vong, tuyệt loại, thướng dã.
象曰: 馬匹亡, 絕類, 上也
Tứ bỏ Sơ, tuyệt bè riêng mình mà lên theo Ngũ, thiệt là ra khỏi u cốc mà lên kiều mộc, nên Hào từ khen cho rằng: Mã thất vong.
5. Cửu Ngũ: Hữu phu loan như, vô cựu.
九五: 有孚攣如, 無 咎.
Cửu Ngũ cương kiện lại trung chính, sẵn có thực đức Trung Phu mà lại ở được vị chí tôn làm chủ cho đời Trung Phu, ở dưới lại có Cửu Nhị, đồng tâm đồng đức mà giúp đỡ với nhau.
Vì vậy nên tấm lòng chí thành của Ngũ thắt buộc được lòng thiên hạ, lòng người tin phục Ngũ bằng một cách rất gắn bó, không thể nhả ra. Được như thế thời vô cựu.
Loan nghĩa là trói buộc, trói buộc bằng đây chí thành càng bền chặt hơn đây thế lực, hiệu quả của Trung Phu, thiệt có như hào Cửu Ngũ.
Chữ "Hữu phu loan như" trong Dịch, chỉ thấy ở hai nơi, thảy vì dương cương, trung chính mà được nghĩa ấy. Một là ở Cửu Ngũ quẻ Tiểu Súc, một là Cửu Ngũ quẻ này.
Tượng viết: Hữu phu loan như, vị chính đáng dã.
象曰: 有孚攣如, 位正當也.
Hào Ngũ có đức dương cương, trung chính mà lại ở được vị trung chính nên Hào từ nói rằng: Hữu phu loan như.
6. Thượng Cửu: Hàn âm, đăng vu thiên, trinh, hung.
上九: 翰音登于天, 貞凶.
Chữ trinh hung ở đây, cũng in như chữ trinh hung ở hào Thượng quẻ Tiết.
Thượng Cửu tính chất đã dương cương, quá trung mà lại ở vào cuối cùng thì Trung Phu. Trung Phu đã đến lúc cực, tín chi cực thời tín phải suy, trong ruột đã mòn mà chỉ lòe loẹt ở ngoài vỏ, tượng như tiếng loài chim bay, nghe côi trồi mà không rõ hình thật.
Có hư danh bằng tín mà không thực đức bằng tín. Đó là đã xấu rồi, huống gì Thượng lại tính chất cương táo, ở vào thì Trung Phu chi cực mà không biết biến, thấy tín mà tín, không biết cân nhắc ở nghĩa lí, cố thủ lấy cách tín của mình mà trái mất nghĩa biến thông, như thế, tất kết quả phải hung.
PHỤ CHÚ: Hào này hai câu chia làm hai tiệt: Hàn âm đăng vu thiên là tiệt trên; trinh hung là tiệt dưới.
Thầy Mạnh Tử có nói: Tiếng tăm quá hơn sự thực, quân tử lấy làm xấu.
Thượng Cửu ở về thì Trung Phu, trong đời đương suy trọng người tín. Thượng lại bó buộc về hoàn cảnh mà cố sức trau dồi giữ lấy danh tín, danh đã quá lớn mà thực không đủ xứng đáng, nên thủ tượng bằng hàn âm đăng vu thiên, đó là nửa tiệt trên của Thượng Cửu. Nhưng còn mong Thượng biết lấy học vấn mà bỏ thêm trí thức cho mình, dành bỏ vứt hư danh của mình mà nghiên cứu cho được chân lí làm một người ngôn bất tất tín, hành bất tất quả, duy nghĩa sở tại 言不必信, 行不必果, 惟義所在, như trong sách Mạnh Tử.
Nhưng Thượng có được thế đâu! Tính chất cương táo mà lại xử vào địa vị Trung Phu chi cùng dở mình đã có danh tín nên cứ cố thủ lấy danh tín hoài.
Đạo lí phải hay chăng, sự lí trúng hay trật, toàn không cần lượng mà cứ làm một cách tín, như tín của Vị Sinh[21] .
Thiệt đúng như câu Đức Khổng dạy: Ham tín mà không ham học, kết quả mắc một bệnh hại là một người tặc. Thượng Cửu này chính trúng vào bệnh ấy, biết tín mà không biết biến thông, e có lúc vì tín mà mang vạ nên kết lại chữ trinh hung. Đó là nửa tiệt dưới của Thượng Cửu.
Tượng viết: Hàn âm đăng vu thiên, hà khả trường dã.
象曰: 翰音登于天, 何可長也.
Ham hư danh mà lấy tín làm cao, vẫn cũng có hư danh trong một lúc, nhưng giữ đến cùng cực mà không biết biến thông thời thế nào lâu dài được.
PHỤ CHÚ: Đọc quẻ này nên tham khảo với quẻ Tiết. Tiết là đạo lí rất hay ở sau thì Hoán. Trung Phu là đạo rất hay ở sau thì Tiết.
Thánh nhân có bao giờ dạy cho người bất tiết, bất tín đâu, nhưng Tiết với Phu, thảy cần phải đắc trung, nên Soán Truyện hai quẻ thay có câu: Cương đắc trung.
Quẻ Tiết, cương, nhu phân, nhi cương đắc trung. Quẻ Trung Phu, nhu tại nội, nhi cương đắc trung. Vì vậy, tiết cho đắc trung thời tiết hanh, phu cho đắc trung thời phu cát. Nếu trái lại, quá tiết mà bất trung thời tiết hóa ra tiết khổ, quá tín mà bất trung thời tín hóa ra tín cùng.
Vậy nên, Hào từ hào Thượng ở hai quẻ: Một bên thời khổ tiết, trinh hung mà Tượng Truyện nói rằng Kì đạo cùng dã; một bên thời hàn âm đáng vu thiên, trinh hung mà Tượng Truyện nói rằng Hà khả trường dã.
Chúng ta học Dịch
nghiên cứu cho đến ý nghĩa hai quẻ, mới biết rằng Dịch lí đủ kinh, đủ quyền, có
thường, có biến, có chính, có kì, chẳng phải như hạng người bả trì bất định 把持不定 , cũng chẳng phải như hạng người cố chấp
bất thông 固執不聰.
Nếu nhận lầm hai chữ trinh hung mà nghĩ rằng bất tiết, bất tín cũng được, hay là bỏ qua hai chữ trinh hung mà nghĩ tín gì, tiết gì cũng hay thảy là oan uổng cho Dịch học lắm.
62. QUẺ LÔI SƠN TlỂU QUÁ
Chấn trên; Cấn dưới
Quẻ này là quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá. Cấn hạ cũng là Nội Cấn, Chấn thượng cũng là Ngoại Chấn. Chấn lôi, Cấn sơn, nên tên quẻ đọc bằng Lôi Sơn Tiểu Quá.
TỰ QUÁI
Tự quái: Hữu kì tín giả, tất hành chi, cố thụ chi dĩ Tiểu Quá.
序卦: 有其信者, 必行之, 故受之以小過.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Trung Phu tiếp lấy quẻ Tiểu Quá là vì cớ sao?
Trưởc kia là quẻ Trung Phu. Phu nghĩa là tin, cậy ở nơi mình tin đó mà tất cứ làm ngay làm mà không xét cái tin đó phải hay chăng, tất mắc lấy lầm lỗi. Vậy nên, sau quẻ Trung Phu, tiếp lấy quẻ Tiểu Quá.
Ý nghĩa sở dĩ đặt tên bằng Tiểu Quá thời xem ở Soán từ, Soán Truyện sau này đã thích minh bạch.
SOÁN TỪ
Tiểu Quá, hanh, lị trinh. Khả tiểu sự, bất khả đại sự, phi điểu đi chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ đại cát.
小過, 亨, 利貞. 可小事, 不可大事, 飛鳥遺之音, 不宜上, 宜下, 大吉.
Tiểu Quá, hanh, lị trinh.
Chữ Tiểu Quá có ba nghĩa: Một nghĩa là cái nó có ý quá; lại một nghĩa là việc nhỏ có quá; lại một nghĩa là quá chút đỉnh.
Chữ Quá có hai nghĩa: Một nghĩa Quá là quá, như nói rằng quá hậu, quá bạc, quá lớn, quá nhỏ, v.v. Lại một nghĩa Quá là lỗi, như nói quá thất, quá ngộ, quá cựu, v.v, nhưng ở Quái từ đây thời không dùng nghĩa Quá là lỗi mà dùng nghĩa Quá là quá.
Quẻ Tiểu Quá này phản đối với quẻ Đại Quá, bởi vì đạo lí trong thiên hạ có việc nên quá mà đúng thì nên lấy Đại Quá làm hay, nhưng cũng có việc mà đúng thì chỉ Tiểu Quá là hay.
Tỉ như, đương hồi phải bí mật, hoặc việc phải bí mật thời lấy thành tích nhỏ quá làm hay; đương hồi nên tiết kiệm, hoặc việc nên tiết kiệm thời lấy tiêu phí nhỏ quá làm hay. Chỉ duy cân nhắc ở thì với việc, thì đúng như vậy, việc nên như vậy mà ta ứng phó bằng cách Tiểu Quá mới được trơn bọt lọt lạch, vừa sóng vừa thuyền mà tới đâu cũng hanh thông được.
Lại tỉ như, đi một lối đường, vì trước thiên về quá Tây, bây giờ nhích lại quá Đông, thế là vừa đúng chính giữa đường.
Lại tỉ như, giảng một lí luận, người kia xu hướng về cực tả mà người này nhích qua cực hữu, thế là vừa đúng giữa trung bình. Vậy nên, quá chẳng phải là đạo thường, nhưng theo về đạo biến thời cũng nhiều khi có quá mới hanh, chỉ duy phận lượng quá đó, không quá được nhiều được lớn, chỉ quá chút đỉnh là vừa hay. Vậy nên nói rằng: Tiểu Quá hanh.
Tuy nhiên, đạo lí tốt nhất là đắc trung, quá cũng là việc bất đắc dĩ nên phải quá bằng một cách vừa chính. Quá mà vừa đúng với đạo chính thời quá ở chính là quá mà hay.
Trái lại, nếu Quá mà bất chính là quá ở tà, chút quá đã là dở hoắc. Vậy nên Quái từ lại nói lị trinh, nghĩa là quá bằng chính thời mới lị.
Trình Truyện có câu: “Bất thất thì nghi chi vị chính” nghĩa là, không trái với lẽ phải trong thì ấy là gọi bằng chính, chính tức là trinh.
Khả tiểu sự, bất khả đại sự, phi điểu duy chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ đại cát.
Việc trong thiên hạ hay dở cốt ở thì, vì xê xích cho đúng với thì, nên có khi phải quá chút đỉnh, nhưng chỉ dùng cách quá ấy vào chuyện nhỏ, không nên dùng cách quá ấy vào chuyện lớn.
Bởi vì những việc nhỏ ấy, thì gian ngắn ngủi, phạm vi chật hẹp, dầu có quá chút đỉnh mà việc vừa đúng với thì thời quá mới có thể hanh thông được.
Kìa những việc lớn, thì gian đã lâu dài, phạm vi đã rộng lớn, nếu sai một ly thời sợ lầm đến một dặm mà há lẽ làm quá được rư? Tỉ như, đối với vợ con mà quá ở nghiêm thời đạo trì gia vẫn cũng tốt; nếu đối ư nhân dân quá ư khắc thời ảnh hưởng đến chính trị rất lớn.
Đối với bản thân mà quá ư kiệm thời đạo trì kỉ là hay; đối với việc công chúng lị ích mà quá ư kiệm thời duy độc với xã hội e không chừng, như những loài ấy thảy là khả tiểu sự, bất khả đại sự.
Trên đây là thông luận về đạo Tiểu Quá, nay lại bàn riêng về cách quá của người ở thì Tiểu Quá. Thì Tiểu Quá là thì thế nào? Theo như tượng quẻ hào Ngũ, hào Nhị âm nhu mà lại đắc trung, hào Tam, hào Tứ dương cương mà thất vị, chính là thì tiểu nhân dụng sự, quân tử thất thì, nên quân tử xử thì ấy phải kiệm đức từ danh, tiếng tăm lớn không nên đua, chức vị cao không nên ở, tượng như con chim bay, vừa bay vừa kêu, có rơi tiếng xuống cho người ta nghe, nhưng nghe chẳng bao xa mà người cũng không thấy chim được rõ.
Thân mình sở xử không nên chiếm ngôi cao, chỉ nên ở ngôi thấp, ở về thì Tiểu Quá mà giấu tiếng giữ thân được như thế thời về phần quân tử chắc được tốt lành, nên nói rằng: Đại cát. (Theo thông lệ ở Dịch, tiểu là tiểu nhân, đại là quân tử). Đại cát nghĩa là quân tử biết việc như thế thời được cát. Chữ cát phản đối với chữ hung, tránh được hung, tức là cát, chứ không được cát hanh như mọi nơi.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Tiểu Quá, tiểu giả quá nhi hanh dã. Quá dĩ lị trinh, dữ thì hành dã. Nhu đắc trung, thị dĩ tiểu sự cát dã. Cương thất vị nhi bất trung, thị dĩ bất khả đại sự dã. Hữu phi điểu chi tượng yên, phi điểu duy chi âm, bất nghi thượng nghi hạ, đại cát, thượng nghịch nhi hạ thuận dã.
彖曰: 小過, 小者過而亨也. 過以利貞, 與時行也. 柔得中, 是以小事吉也.剛失位而不中, 是以 不可大事也.
有飛鳥之象焉. 飛鳥遺之音, 不宜上, 宜下, 大吉, 上逆而下順也.
Soán viết: Tiểu Quá, tiểu giả quá nhi hanh dã.
Tiểu Quá nghĩa là việc nhỏ có hơi quá mà cũng chỉ quá nhỏ, nhưng Tiểu Quá là việc bất đắc dĩ, đụng lấy thì hoặc việc nên phải quá thời tùy thì, tùy việc mà quá thời quá mà hanh thông được.
Quá dĩ lị trinh, dữ thì hành dã.
Quá mà lị ở trinh là vì quá cũng phải xem thì, cặp với thì mà đi, mới gọi bằng trinh, trinh thời mới lị.
Nhu đắc trung, thị dĩ tiểu sự cát dã.
Âm nhu là tiểu, theo ở thể quẻ Lục Nhị, Lục Ngũ là hào âm nhu mà ở đắc trung vị, vậy nên làm việc tiểu thời cát.
Cương thất vị nhị bất trung, thị dĩ bất khả đại sự dã.
Còn như việc lớn, tất cần có tài dương cương mà đắc vị mới làm được, dương cương là đại, quẻ này hai hào dương thảy thất vị mà không được ở vị trung, vậy nên, không làm nổi việc lớn. Nhu đắc trung là tiểu nhân đắc thì, cương thất vị là quân tử thất thì, nên Quái từ nói rằng: Khả tiểu sự, bất khả đại sự, cũng có ý nói rằng ở về thì Tiểu Quá chính hợp với việc tiểu nhân mà không thlch hợp với việc quân tử.
Hữu phi điểu chi tượng yên, phi điểu duy chi âm, bất nghi thượng nghi hạ, đại cát, thượng nghịch nhi hạ thuận dã.
Từ đây sắp xuống lại lấy thể quẻ mà thích cho hết lời quẻ.
Theo như thể quẻ, cương trong, nhu ở ngoài là hình con chim, hai hào âm ở [dưới] tượng hai chân con chim; hai hào âm ở trên tượng hai cánh con chim xòe ra. Chim hai cánh ở trên là tượng chim bay. Vì thể quẻ có tượng như vậy nên Quái từ có chữ phi điểu.
Lại theo về nghĩa Tiểu Quá, âm nhu đắc thì, dương cương thất vị. Những người quân tử ở thời đại ấy không nên tiếng tăm quá lớn, chỉ nên như con chim bay, vừa bay vừa kêu, tiếng kêu chỉ thoáng qua rơi xuống mà thôi.
Lại không nên ở ngôi cao, chỉ nên ở ngôi thấp, có thế thời đạo quân tử mới được tốt, nên Quái từ nói rằng phi điểu duy chi âm, bất nghi thượng nghi hạ, đại cát, bởi vì thượng thời nghịch với thì mà hạ thời thuận với thì đó vậy.
Ba câu ấy chuyên nói về phần dương cương quân tử nên có chữ đại cát. Đại cát là dương cương quân tử.
Ở về thì Tiểu Quá, không việc gì đại mà nói được cát, chỉ duy dương cương quân tử, biết thuận thì tỵ thối, tức là đại được cát, cát cũng chẳng qua khỏi hung mà thôi.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Sơn thượng hữu lôỉ, Tiểu Quá. Quân tử dĩ hạnh quá hồ cung, tang quá hồ ai, dụng quá hồ kiệm.
象曰: 山上有雷, 小過. 君子以行過乎恭, 喪過乎哀, 用過乎儉.
Tượng quẻ Chấn ở trên Cấn là tiếng sấm vừa ở trên núi mà tiếng sấm bị nghẹt với núi, phải thu súc lại mà nhỏ đi, nên tượng là Tiểu Quá. Quân tử xem ở tượng ấy, biết ở thì này chưa làm được việc đại quá nên chỉ làm việc tiểu quá mà thôi.
Việc nên quá mà quá, nhưng chỉ quá bằng việc nhỏ, tính nết mình bình thường quá chừng cung cẩn, đụng lấy việc tang quá chừng thương thảm, tiêu xài tiền của ở việc một mình quá chừng tiết kiệm. Ba việc ấy chỉ là việc trong bản thân mà không quan hệ đến việc quốc gia xã hội nên quá mà quá, nhưng cũng chỉ quá bằng tiểu sự, không quá bằng đại sự, đó là đúng với thì nghĩa Tiểu Quá.
PHỤ CHÚ: Ba chữ quá ở trên Tượng Truyện nghĩa là việc vẫn có quá, nhưng quá mà thích với lẽ phải, hạnh quá hồ cung mà không quá hồ kiêu ngạo; tang quá hồ ai mà không quá hồ trương hoàng; đình đám dụng quá hồ kiệm mà không quá hồ xa xỉ trang sức. Những việc quá ấy chỉ là việc tu thân nên nói rằng: Tiểu Quá.
Tuy nhiên nên quá mà quá, nhưng thái quá cũng là thất trung, thái quá ở cung thời cung ra một cách giả dối; thái quá ở ai thời ai ra một cách tàn hủy; thái quá ở kiệm thời kiệm ra một cách keo sẻn. Điều đó cũng không phải đạo quân tử nhưng vì có thì mà phải làm quá, cũng chỉ quá chút đỉnh là vừa, đó cũng là nghĩa Tiểu Quá.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Lục: Phi
điểu dĩ hung. 初六: 飛鳥以凶.
Sơ Lục âm nhu tại hạ, vẫn là tư cách tiểu nhân mà lại thượng ứng với Cửu Tứ, âm được dương giúp cho lại vừa ở thì Tiểu Quá nên Sơ càng hăng hái làm việc quá, quá mà đến nỗi quá thậm, đã chóng vừa xa, không thể cứu chỉ được, chẳng khác gì chim bay quá gấp mà mắc vạ sẩy cánh gãy mình, nên nói rằng phi điểu dĩ hung, nghĩa là thì Sơ ở dưới hết chỉ nên làm chim nấp; bây giờ không làm chim nấp mà làm chím bay thời hung là phải rổi.
PHỤ CHÚ: Bắt đầu vào thời Đại Quá mà quá cẩn thận như hào Sơ "Tạ dụng bạch mao" mới được vô cựu. Bắt đầu vào thì Tiểu Quá mà quá chừng nóng nảy như hào Sơ: "Phi điểu" thời mắc lấy hung; mới biết rằng: Việc thiên hạ lớn nhỏ khác nhau mặc dầu, tổng chi, việc quá là việc không đáng khinh dị. Nếu thấy thì Quá mà cứ quá liều, chẳng học hào Sơ Đại Quá mà học hào Sơ Tiểu Quá, chẳng trái thì, mắc lấy họa hay sao?
Tượng viết: Phi điểu dĩ hung, bất khả như hà dã.
象曰: 飛鳥以凶. 不可如何也.
Địa vị như Sơ Lục mà nếu quá ở cẩn thận, dầu không được đại cát, cũng không đến nỗi hung. Bây giờ lại quá ở táo tiến mà phi điểu dĩ hung, thiệt không biết làm thế nào cho nó được vậy.
2. Lục Nhị: Quá kì tổ, ngộ kì tỉ, bất cập kì quần, ngộ kì thân, vô cựu.
六二: 過其祖, 遇其妣, 不及其君, 遇其臣, 無咎.
Lục Nhị có đức nhu thuận, trung chính, ở vào thì Tiểu Quá, chắc là một người quá mà được phải. Theo về địa vị Cửu Nhị, nếu bước lên nữa thời vượt qua hai hào dương là Tam, Tứ, mà đụng gặp được một hào âm là Ngũ.
Bản thân Nhị đã âm nhu, đáng lẽ là cầu dương thời mới phải. Vì ở thì Quá nên vượt qua dương mà trở lại gặp lấy âm, tượng như vượt qua ông mày mà trở lại gặp mẹ mày nên nói rằng: Quá kì tổ, ngộ kì tỉ (gọi ông bằng tổ dùng để thay hào dương, tức là Tam, Tứ; gọi mẹ bằng tỉ, dùng để thay hào âm, tức là Ngũ).
Cảu này chỉ vì địa vị Lục Nhị mà đặt ra lời thí dụ như thế. Câu dưới mới bày vẽ cách làm Quá cho Lục Nhị, nên có lời rằng: Nhị ơi! Mày ở về thể Hạ Quái, chỉ là phận làm tôi; người mày nếu có thượng tiến nữa, nhưng chỉ nên vừa phận mày, mày không kịp bằng vua thời chính là đúng phận làm tôi của mày.
Bất cập nghĩa là không bằng ngang; ngộ là vừa đúng. Chữ Ngộ câu dưới với chữ ngộ ở câu trên, ý có khác nhau: chữ ngộ trên là nói tình cờ mà đụng gặp, Nhị vẫn không ngờ ngộ tỉ mà tình cờ ngộ là may cho địa vị Cửu Nhị; Nhị vẫn sẵn lòng ngộ kì thần mà làm được đúng là đáng kính trọng cho tâm sự Cửu Nhị.
Câu: Bất cập kì quân, ngộ kì thần, chính là nghĩa hạ thuận ở trên Soán Truyện, quá mà không quá là thủ chính đắc trung mà vô cựu.
Tượng viết: Bất cập kì quân, thần bất khả quá dã.
象曰: 不及其君, 臣不可過也.
Hào từ Lục Nhị nói rằng: Bất cập kì quân là vì, ở vào thì Quá, tuy có việc nên quá, nhưng về nghĩa làm tôi thời không thể quá được vua vậy. Bất cập kì quân chính là quá ở cung cẩn, đó cũng là nghĩa chữ Quá.
3. Cửu Tam: Phất quá phòng chi, tòng hoặc tường chi, hung.
九三: 弗過防之, 從或戕之, 凶.
Ở vào thì Tiểu Quá, âm nhu quá hơn dương, chính là tiểu nhân mạnh hơn quân tử. Cửu Tam dương cương đắc chính vẫn là quân tử, nhưng vì tính chất quá ở cương, sợ không khỏi tự thị mình hay mà không lo phòng bị bọn quần tiểu, nên răn cho Tam rằng: Ở vào thì Quá, việc gì có quá chút đỉnh mới hay.
Theo như hoàn cảnh của Tam, chỉ nên quá phòng bị tiểu nhân thời hơn. Nếu Tam chẳng quá phòng nó, rồi e đây có người làm hại Tam, mà Tam mắc vạ đó. (Tường nghĩa là làm hại; phòng nghĩa là ngăn ngừa. Quá phòng nghĩa là phòng bị hơi quá cẩn thận).
PHỤ CHÚ: Tiểu Quá là thì chung cả quẻ, sáu hào lại là thì riêng của mọi hào. Quẻ này khốn nạn nhất là thì Cửu Tam, ngó xuống dưới thời hai âm toan bức mình, ngó lên trên thời hai âm toan ép mình. Cửu Tứ tuy đồng đức, nhưng không giúp đỡ được mình, bản thân Tam lại ở chốn bán thượng lạc hạ. Vậy nên Hào từ phải nói một cách quá ư tiểu tâm như thế. Tả Truyện có câu nói rằng: Quân tử hay kiêng sợ ở việc nhỏ, mới không hoạn nạn lớn, chính đúng với nghĩa hào này.
Tượng viết: Tòng hoặc tường chi, hung như hà dã.
象曰: 從或戕之, 凶如何也.
Cửu Tam nếu không biết phòng bị quần âm thời hung họa về tương lai, không biết chừng nào vậy.
4. Cửu Tứ: Vô cựu, phất quá ngộ chi vãng, lệ, tất giới, vật dụng vĩnh trinh.
九四: 無咎, 弗過遇之, 往厲, 必戒, 勿用永貞.
Địa vị Cửu Tứ cũng bán thượng lạc hạ như Cửu Tam, nhưng vì Tứ hào cương mà xử vị nhu, biết hạn chế tính cương mà làm một cách quá hồ cung, như thế là được vô cựu. sở dĩ được vô cựu là vì chẳng quá ở cương.
Đã chẳng quá ở cương là vừa đúng với đạo lí. Đã phất quá mà ngộ chi là vừa đúng với đạo Tiểu Quá. Ở vào thì Tiểu Quá nên như thế mà thôi.
Nếu còn tấn vãng thời có việc nguy, tất nên giới cụ mới được.
Tuy nhiên, ở địa vị Cửu Tứ, thiệt là địa vị rất khó xử. Vãng mà theo Nhị âm vẫn sợ có nguy, nhưng nếu cố thủ mà không biết biến thông, ở gặp hồi trong nước vô đạo mà giữ lấy một cách nguy ngôn nguy hạnh, cũng chưa hợp đạo thì trung, nên nói lại vật dụng vĩnh trinh, nghĩa là nên tuy thì thiện xử, không nên câu nệ mà giữ một cách thường đó vậy. (Chữ trinh ở đây cũng chỉ nghĩa là cố thủ, không phải trinh là chính).
Trinh mà nghĩa là chính thời trinh là đạo rất hay của quân tử. Trinh mà nghĩa là cố thủ thời vĩnh trinh lại trái với phương pháp biến thông của quân tử.
Hào từ này nên chia làm ba đợt: Phất quá ngộ chi là ngợi khen cách hiện tại; Vãng lệ tất giới là răn ngừa về tương lai; Vật dụng vĩnh trinh là tóm về đạo lí toàn cuộc nghĩa là, quân tử nên dùng cách thì trung mà không nên cố chấp.
Tượng viết: Phất quá ngộ chi, vị bất đương dã, vãng lệ tất giới, chung bất khả trường dã.
象曰: 弗過, 遇之, 位不當也, 往厲, 必戒, 終不可長也.
Phất quá ngộ chi là vì Cửu Tứ dương cương mà xử vào nhu vị vì địa vị không quá ở cương nên vừa đúng lấy đạo Tiểu Quá vậy. Vãng lệ tất giới là vì ở vào thì âm thịnh hơn dương, nếu không biết giới cụ thời kết quả không thể lâu dài được. Vị bất đương nghĩa là, hào cương mà ở vào vị nhu, nhờ nhu chế được cương nên phất quá ngộ chi.
5. Lục Ngũ: Mật vân bất vũ, tự ngã Tây giao, công dặc, thủ bị tại huyệt.
六五: 密云不雨, 自我西郊, 公弋取彼, 在穴.
Dương hạ giáng mà tiếp với âm, âm thượng thăng mà giao với dương thời mới được âm dương hòa mà thành ra mưa.
Nhưng ở thì Tiểu Quá thời khác hẳn, âm một mực thượng tiến mà dương cũng không hạ giáng tiếp xúc, tượng như mây dương uất kết mà không làm nên mưa, nên nói rằng: Mật vân bất vũ, tự ngã Tây giao, nghĩa câu này cũng như nghĩa Quái từ quẻ Tiểu Súc, nghĩa là Ngũ tuy ở ngôi tôn, nhưng vì âm nhiều quá hơn dương, không thể hữu vi được, chẳng qua đồng loại tương cầu bạn âm quấn quýt lấy nhau.
Ngũ lại xuống dắt Nhị lẻn làm người giúp cho mình nên lại nói rằng: Công dặc, thủ bỉ tại huyệt. Công chỉ vào Lục Ngũ; huyệt là hang sâu, tức là chốn âm chỉ vào Lục Nhị; dặc thủ nghĩa là đe mà bắt lấy. Ngũ vớ lấy Nhị làm bạn, tỉ như: Dặc thủ bỉ tại huyệt.
Nói tóm lại, ở vào đời âm quá, không làm được việc lớn gì, chi là Ngũ với Nhị cặp kè nhau cho qua thì mà thôi.
Tượng viết: Mật vân bất vũ, dĩ thượng dã.
象曰: 密云不雨, 已上也.
Âm dương tiếp xúc nhau, mới thành được mưa. Bây giờ âm lên ở quá cao mà không tiếp xúc với dương. Thế là âm dương bất hòa làm gì được mưa nên nói rằng: Mật vân bất vũ, dĩ thượng đã (Dĩ thượng nghĩa là quá cao).
6. Thượng Lục: Phất ngộ quá chi, phi điểu ly chi, hung, thị vị tai sảnh.
上六: 弗遇過之, 飛鳥離之, 凶, 是謂災眚.
Thượng Lục bản chất âm nhu mà ở vào thể Chấn, Chấn thời có tính hiếu động, âm mà hí động là một cách quá dở, huống gì ở vào cuối cùng thì Tiểu Quá, quá chi chung là cực ở quá nên nỗi cách hành vi của Thượng chẳng gì đúng với đạo lí mà lại trật quá lên nữa. Phận lượng quá đã lên đến cao điểm mà lại rất xa, tượng như con chim bay ly cách đã xa mà không thể kéo chữa được nữa. Như thế thời chẳng những hung mà thôi mà lại còn tai trời vạ người đưa đến cho nữa.
PHỤ CHÚ: Ở quẻ Tiểu Quá này, bốn âm ở ngoài, bao bọc nhị dương trong, số dương phần ít, số âm phần nhiều là âm quá mà dương không quá, tượng là tiểu nhân nhiều quá ư quân tử, nên Cửu Tứ với Thượng Lục phản đối nhau. Cửu Tứ thời phất quá mà ngộ chi là dương không quá được âm mà lại ngộ lấy âm. Quân tử mà ngộ lấy tiểu nhân là việc đáng sợ nên răn cho rằng: Vãng lệ tất giới.
Trái lại, Thượng Lục thời phất ngộ quá chi là âm chẳng ngộ lấy dương mà lại vượt quá được dương. Tiểu nhân mà vượt quá quân tử là nguy cho thế đạo nhiều lắm, nên Hào từ ngăn cho rằng: Thị vị tai sảnh.
Dịch vị quân tử mưu, bất vị tiểu nhân mưu, thảy như thế.
Tượng viết: Phất ngộ quá chi, dĩ kháng dã.
象曰: 弗遇過之, 已亢也.
Phất ngộ mà quá chi là vì Thượng Lục xử vào Quá chi chung, ỷ thế âm quá mà vượt đến tột mực, hung là phải rồi (Dĩ kháng nghĩa là quá cao).
PHỤ CHÚ: Xem suốt hết Hào từ cả sáu hào thời càng nên nhận kỹ câu Quái từ Bất nghi thượng nghi hạ, đại cát.
Ồ về thì âm thịnh hơn dương, nhu nhiều hơn cương, tiểu nhân đắc thế hơn quân tử, về phần dương cương, phe quân tử chỉ nên hạ thối, không nên thượng tiến. Trong quẻ chỉ có hai hào dương là Tứ với Tam.
Tam vì ở vị dương là tính ham lên, lên thời mắc lấy hung là vì thì bất nghi thượng mà thượng thời kết quả phải xấu. Tứ vì xử vị nhu, nhu thời hay tự hạ, hạ nên được vô cựu là thì nghi hạ mà biết cách hạ thời kết quả cũng được lành.
Chúng ta rủi gặp thì Tiểu Quá nên cân lượng ở chốn nghi thượng nghi hạ như thế nào!
63. QUẺ THỦY HỎA KÍ TẾ
Khảm trên; Ly dưới
Quẻ này là quẻ Thủy Hỏa Kí Tế. Li hạ cũng là Nội Li, Khảm thượng cũng là Ngoại Khảm. Khảm thủy, Li hỏa, nên tên quẻ đọc bằng Thủy Hỏa Kí Tế.
TỰ QUÁI
Tự quái: Hữu quá vật giả, tất Tế, cố thụ chi dĩ Kí Tế.
序卦: 有過物者, 必濟, 故受之以既濟.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Tiểu Quá, tiếp lấy quẻ Kí Tế là vì cớ sao?
Trước kia là quẻ Tiểu Quá, hễ có tài đức quá hơn người, quá nhỏ quá lớn mặc dầu, nhưng đã quá nhân bằng việc gì, tất làm nên được việc ấy. Vậy nên, sau quẻ Tiểu Quá, tiếp lấy quẻ Kí Tế.
Tế nghĩa là làm nên, cũng có nghĩa là vượt được qua. Như nói: tế sự, tế vật, v.v. là thuộc về nghĩa Tế là nên. Như nói: tế xuyên, tế hiểm, v.v. là thuộc về nghĩa Tế là qua.
Theo về thể quẻ và tượng quẻ, Khảm thủy ở trên, Li hỏa ở dưới; tính lửa viêm thượng bây giờ ở dưới, theo tính viêm thượng mà thượng giao với Khảm; tính thủy nhuận hạ bây giờ ở trên, theo tính nhuận hạ mà hạ giao với Li. Thủy hỏa tương giao thời giúp nhau mà thành công dụng.
Lại theo địa vị sáu hào trong quẻ, âm ở vị âm, dương ở vị dương, thảy đắc kì chính, hào thảy đắc vị, lại thảy tương ứng, thiệt là tình hình trong xã hội hoàn toàn đâu vào đó, nên đặt tên quẻ bằng Kí Tế.
PHỤ CHÚ: Toàn thể của vũ trụ lớn nhất là thiên địa.
Càn vi Thiên, Khôn vi Địa, sở dĩ đặt ở đầu Kinh. Công dụng của tạo hóa lớn nhất 1à thủy, hỏa. Khảm vi thủy, Li vi hỏa, sở dĩ đặt Khảm, Li ở cuối Thượng Kinh. Bây giờ sáu mươi tư quẻ đã sắp hết, chính là công việc Dịch đã đến lúc sắp hoàn thành thời lại lấy hai quẻ Khảm, Li hợp thể, Khảm thượng, Li hạ mà thành quẻ Kí Tế. Li thượng Khảm, hạ mà thành quẻ Vị Tế.
Lấy hai quẻ ấy mà đặt vào cuối cùng tuyền Kinh để cho chúng ta biết, vũ trụ chi thỉ, vũ trụ chi chung, chỉ có thiên, địa, thủy, hỏa.
Nên mở trang thứ nhất Kinh Dịch thời thoạt thấy Càn, Khôn đứng đầu, vì có Càn Khôn mà đẻ ra sáu mươi tư quẻ là vạn sự vạn vật đã bao quát trong ấy. Đọc đến cuối cùng Kinh Dịch, lại thấy được hai quẻ là "Thủy, hỏa nhị thể giao tương vi dụng" mà thành hai quẻ ở cuối cùng Kinh.
Chúng ta thử nghĩ, cùng vạn cổ, suốt năm châu, vạn vật sở dĩ sinh tồn, vạn sự sở dĩ thành lập không một tí gì là không phải công dụng của thủy, hỏa mà thủy, hỏa lại thu nạp vào trong công dụng thiên địa. Nhật quang, điện khí ở đâu mà sinh ra, hà hải sơn xuyên lấy gì mà dụng tải.
Dịch đầu hết hai quẻ Càn, Khôn mà kết thúc lấy hai quẻ Khảm, Li hợp thể, ý nghĩa thiệt sâu xa biết chừng nào!
Nhưng chúng ta lại biết rằng: Công dụng của Khảm, Li vẫn lớn thế, nhưng cớ sao chẳng đặt Khảm, Li ở đầu Kinh mà lại kết thúc lấy hai quẻ Kí Tế, Vị Tế? Chẳng phải là một nghi nghĩa hay sao?
Thiệt có như thế; nếu không thế thời còn gì là Dịch lí! Dịch lí không phải là tuyệt đối, chỉ là tương đối.
Dịch lí có tượng khắc mà sau mới có tượng thành. Nếu Khảm, Li mỗi quẻ ở mọi đường, hay có Khảm mà không có Li, có Li mà không Khảm. Thế thời thủy, hỏa chỉ là tuyệt đối mà làm sao tương thành được; thủy, hỏa chẳng tiếp xúc nhau làm sao tương khắc được; đã không tương khắc, tất nhiên không tương thành được; vì có tương xúc mới hay tương khắc, vì có tương đối mới hay tương thành; mà lại vì tương khắc mà công dụng tương thành mới rõ rệt.
Gần đây, khoa học mới càng ngày càng phát đạt, tuy muôn thức, ngàn hình, ngày đêm, tháng mới mà không gì trật ra khỏi ngoài vòng đạo lí ấy.
Thử xem một việc rất thiển cận, than đá nấu ra thành khí thủy, khí thủy lại phát động được điện cơ, quay đi quẩn lại cũng chỉ là thủy, hỏa tác dụng mà thôi.
Khảm, Li hợp thể sở dĩ để sau hết Hạ Kinh, chúng ta chớ nên đọc qua mà không nghĩ.
SOÁN TỪ
Kí Tế, hanh, tiểu, lị trinh, sơ cát, chung loạn.
既濟, 亨, 小利貞, 初吉, 終亂.
Hai chữ Kí Tế, ý nghĩa hay tại chữ kí. Kí là việc đã hiện thành rồi, ở trước khi Kí Tế đã từng trải qua hai thì kì: Một thì kì, còn lộn xộn rối ren, việc gì không ra việc gì, lúc ấy gọi bằng Vị Tế. Lại tấn lên một thì kì nữa là loạn chi cực mà toan bước vào trị, tắc chi cực mà toan bước tới thông, thì kì ấy gọi bằng Tương Tế, đã trải qua hai thì kì ấy rồi là loạn hết mà trị, tắc khỏi mà thông. Lúc bây giờ việc gì cũng thấy đã thu thành, việc gì cũng thấy đã chỉnh đốn, thì kì ấy gọi bằng Kí Tế.
Nói tóm lại, Vị Tế là thì kì đương phá hoại; Tương Tế là thì kì đương tạo nhân; Kí Tế là thì kì đã kết quả. Ở thì kì Kí Tế, những việc lớn thảy đã hanh thông rồi, chỉ còn những việc gì nhỏ nhen tẳn mẳn, phải lo cho được hoàn toàn viên mãn, không một tý gì còn khuyết điểm, mới là thập phần Tế mà hanh, nên nói rằng: Kí tế hanh tiểu, nghĩa là thì kì Kí Tế đại giả hành rồi, cần đương phải làm cho hanh, chỉ là việc nhỏ mà thôi. Hanh hết cả tiểu, tức là cực điểm thành công. Công đã thành rồi, nhưng công việc thủ thành còn gay lắm, tất phải hết sức trinh cố, lo giữ cho được nghiệp dĩ thành. Người ta ở thời đại ấy, càng nên tiểu tâm kính úy. Nếu không thế, e không được thường thường như thì Tế.
Khi mới bắt đầu vào thì Kí Tế, tốt lành đã đành, e đến lúc cuối cùng thì Kí Tế, quay lại nát bét mà thôi.
Chữ sơ cát là mừng cho cảnh hiện tại. Chữ chung loạn là nguy sợ cho cục tương lai. Lúc trị mà lo đến loạn, lúc thịnh mà nghĩ đến suy là thì nghĩa cùa Dịch.
PHỤ CHÚ: Ở trong sáu mươi tư quẻ mà nói về thiên địa nhân sự thay đổi tuần hoàn, tương phản mà lại tiếp tục nhau thời chỉ có bốn quẻ: Địa Thiên vi Thái; Thiên Địa vi Bĩ sở dĩ khác nhau là vì thiên địa giao vởi thiên địa bất giao; Thủy Hỏa vi Kí Tế; Hỏa Thủy vi Vị Tế. Kí Tế, Vị Tế sở dĩ khác nhau là vì thủy, hỏa giao, với thủy, hỏa bất giao. Thủy, hỏa giao mà làm nên Kí Tế, nhưng lúc đầu sang Kí Tế chính mà lúc thiên địa đã giao rồi. Vì thiên địa giao nên thủy, hỏa mới giao. Thế là Thái với Kí Tế cũng trong một vận hội liên đới với nhau, chẳng qua Thái trước mà Kí Tế sau, chỉ thì gian xê xích ít nhiều mà thôi. Vì trị cực mà loạn nảy ra, vì thông cực mà tắc quay lại, bây giờ thủy, hỏa bất tương giao mà thành ra Vị Tế, nhưng lúc bắt đầu vào thì Vị Tế, tất đã có Bĩ rồi. Vì thiên địa bất tương giao mà thủy, hỏa mới bất tương giao. Vậy nên, Bĩ với Vị Tế là liên đới với nhau trong một vận hội, chẳng qua Bĩ trước mà Vị Tế sau, chỉ thì gian có xê xích ít nhiều mà thôi. Chúng ta đọc Dịch đến bốn quẻ ấy, thấy vừa Thái mà liên tiếp với Bĩ, vừa Kí Tế mà liên tiếp lấy Vị Tế, thiệt ghê tởm cho khí số bất thường, nhưng còn may cho nhân loại là Bĩ với Thái, Thái với Bĩ vẫn tuần hoàn luôn luôn, mà Kí Tế với Vị Tế vẫn xoay đổi luôn luôn.
Chúng ta gặp hồi Thái với Kí Tế thời nên nhận nghĩa thành phục vu hoàng với lời sơ cát, chung loạn.
Gập hồi Bĩ với Vị Tế thời nên nhận nghĩa khuynh bỉ hữu hỉ ở hào Thượng quẻ Bĩ, hữu phu vô cựu ở hào Thượng quẻ Vị Tế.
Than ôi! Đạo trời in như bánh xe lăn, việc người in như bàn tay lật, chẳng bao giờ Kí Tế chi cực mà không xoay sang Bĩ; cũng chẳng bao giờ Vị Tế chi cực mà không chuyển sang Thái.
Lấy nhân sự mà chuyển di khí số thời quyền tại chúng ta, cố chớ Thái với Kí Tế mà kiêu dinh, cũng chớ thấy Bĩ với Vị Tế mà đồi trụy. Bốn quẻ trái nhau mà liên tiếp với nhau là thâm ý thánh nhân muốn cho chúng ta biết như thế.
Sơ cát chẳng được bao lăm mà lại chung loạn thời thường thấy, chỉ là tội tại chúng ta mà không nên đo lỗi cho Dịch số.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Kí Tế, hanh, tiểu, tiểu giả hanh dã. Lị trinh cương, nhu chính nhi vị đáng dã. Sơ cát, nhu đắc trung dã. Chung chỉ tắc loạn, kì đạo cùng dã.
彖曰: 既濟, 亨, 小, 小者亨也. 利貞, 剛柔正而位當也. 初吉, 柔得中也. 終止則亂, 其道窮也.
Soán viết: Kí Tế hanh, tiểu, tiểu giả hanh dã.
Đây là lấy thể quẻ thích nghĩa lời quẻ. Kí tế hanh tiểu nghĩa là ở thì Kí Tế, việc lớn vẫn là hanh rồi, còn lại phải lo cho việc nhỏ thảy được hanh.
Lị trinh, cương, nhu chính, nhi vị đáng dã.
Nhưng sở dĩ gìn giữ được Kí Tế, tất phải lị ở trinh chính.
Theo như thể quẻ, Sơ Cửu, Cửu Tam, Cửu Ngũ thảy là hào dương ở vị dương; Lục Nhị, Lục Tứ, Thượng Lục thảy là hào âm ở vị âm. Thế là cương, nhu các đắc kì chính mà mỗi hào ở đúng mỗi vị. Xem thế thời biết rằng: Đạo làm nên Kí Tế, cốt ở trung chính.
Sơ cát, nhu đắc trung dã.
Quái từ lại nói rằng: Sơ cát là vì Lục Nhị ở hạ thể, chính đương lúc đầu Kí Tế mà lại có đức nhu thuận văn minh mà đắc trung, có đức tốt như thế làm gì mà chẳng nên, nên được sơ cát.
PHỤ CHÚ: Xem câu Soán Truyện này thời biết rằng: Việc trong thiên hạ vẫn cốt ở tài đức, nhưng cũng cốt có thì. Lục Nhị ở Kí Tế cũng in như Cửu Nhị ở quẻ Thái, nhưng kể về tài đức thời nhu trung vẫn không bằng cương trung, nên Hào từ Lục Nhị quẻ Kí Tế không được toàn mỹ như Hào từ Cửu Nhị ở quẻ Thái. Chỉ vì Lục Nhị ở về đoạn Sơ Kí Tế; Cửu Nhị ở về đoạn Sơ quẻ Thái, thì vẫn in nhau mà thành tựu cũng in nhau; sở dĩ Soán Truyện lấy sơ cát tán cho Lục Nhị.
Chung chỉ tắc loạn, kì đạo cùng dã.
Quái từ chỉ nói hai chữ chung loạn là vì Kí Tế cực, tất nhiên quay lại Vị Tế, nghĩa vẫn bình thường, nhưng đức Khổng Tử lại phát minh ý nghĩa Quái từ mà nói rằng: Chung chỉ tắc loạn. Chỉ thêm một chữ chỉ mà rất có ý nghĩa, bởi vì thường tình người ta hễ lúc thông thịnh thường hay sinh lòng kiêu dinh mà không lo tấn bộ, có biết đâu việc trong thiên hạ không tấn thời thối, có bao giờ chịu đứng một chốn đâu. Nếu đến chung mà chỉ tức là không tiến, đã không tiến tất nhiên phải thối, đã thối thời rối bét, đạo Kí Tế đến đó tất phải cùng cực.
Chữ đạo ở đây kiêm cả thiên vận, nhân sự, chứ theo về đạo lí hay không biến ở lúc chưa cùng; như câu ở Kinh Thư: Sắp sửa việc trị ở lúc chưa loạn, gìn giữ việc an ở lúc chưa nguy. Chẳng loạn chẳng nguy thời làm sao cùng được.
PHỤ CHÚ: Quẻ Kí Tế này rất thông với y lí, khí vận của vũ trụ cũng in như khí huyết ở nhất thân, nên người xưa thường có nói: Thân người là trời đất nhỏ.
Thủy, hỏa của vũ trụ có giao mới thành tạo hóa; Thủy, hỏa trong mình có giao mới thường được khang kiện, tâm hỏa giáng mà giao với thận, thận thủy thăng mà giao với tâm, tâm, thận giao tức là nhất thân trong Kí Tế, nhưng mà thủy là huyết mạch, hỏa là khí quản, tất phải vận chuyển chu hoàn luôn luôn. Nếu một phút đồng hồ, hỏa chỉ ở một chốn mà không thăng, thủy chỉ ở một chổn mà không giáng, tất sinh ra bệnh quan cách mà đến nỗi trướng thũng.
Phàm việc thiên hạ không tiến bộ trong một lúc tất nhiên thối lui, chỉ nghiệm nhất thân thời cũng đủ biết. Thâm ý câu chung thỉ tắc loạn là muốn cho nhân sự không bao giờ chỉ, thời mới được có chung; không bao giờ loạn, vì chỉ thời loạn chứ không phải vì chung mà loạn.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Thủy tại hỏa thượng, Kí Tế. Quân tử, dĩ tư hoạn nhi dự phòng chi.
象曰: 水在火上, 既濟. 君子以思患而預防之.
Tư nghĩa là nghĩ, cũng có nghĩa là lo; dự nghĩa là trước, nghĩa là sớm, cũng có nghĩa là sẵn.
Quẻ Kí Tế này, Khảm trên, Li dưới là nước ở trên lửa thời lửa sôi được nước mà lại nước dẹp được lửa. Đó là tượng Kí Tế. Quân tử xem tượng ấy, biết được đương ở thì Kí Tế, hạnh phúc ở trước mắt vẫn ai cũng biết mà mầm họa hoạn ở sau lưng thời chẳng ai nghĩ tới. Vì chẳng nghĩ tới mà chẳng lo phòng bị sẵn, nên nỗi ở giữa thì Kí Tế mà họa hại nảy ra. Duy quân tử thời biết tư hoạn mà giữ phòng luôn luôn thời Kí Tế được lâu dài mà không mắc lấy chung loạn.
HÀO TỪ VÀ TlỂU TƯỢNG TRUYỆN
1.Sơ Cửu: Duệ kì luân, nhu kì vĩ, vô cựu.
初九: 曳其輪, 濡其尾, 無咎.
Sơ Cửu dương cương đắc chính, vẫn là người sẵn có tài, trên ứng với hào Tứ là chí sẵn muốn lên, vả lại ở vào đầu thì Kí Tế nên chí cầu tiến có hơi quá hăng.
Vì thì vừa đến Tế mà chí cầu tiến quá hăng, e không chắc khỏi đổ bể nên Hào từ răn cho rằng: Sơ ơi! Ở thời đại này, ai bảo mày chẳng tiến đâu! Nhưng mày hãy từ từ chút đỉnh, vừa đi vừa ngó sau dòm trước, tượng như kéo lết cái bánh xe của mày (Duệ nghĩa là kéo lết; luân nghĩa là bánh xe).
Sơ ở dưới mà tính muốn lên nên tỉ dụ bằng bánh xe. Duệ kì luân ý là hãy chậm chậm tiến. Sơ muốn tiến lên mà biết trịnh trọng như thế thời tuy tiến mà chưa chóng tiến. Tượng như con hồ toan qua sông mà chưa đến lúc ngoắt cái đuôi, nhưng há phải là bất Tế đâu. Vì Sơ ở dưới hết quẻ nên thí dụ bằng đuôi. Vĩ là đuôi; nhu vĩ nghĩa là đuôi rũ xuống nước. Tuy nhu kì vĩ, nhưng vẫn chưa qua thời được vô cựu.
Tượng viết: duệ kì luân nghĩa vô cựu dã.
象曰: 曳其輪, 義無咎也.
Duệ kì luân như hào Sơ là muốn tế mà không chịu nên nóng, ở thì nghĩa hào Sơ như thế thời vô cựu.
2. Lục Nhị: Phụ táng kì phất, vật trục, thất nhật đắc.
六二: 婦喪其茀, 勿逐, 七日得.
Lục Nhị có đức văn minh trung chính mà lại thượng ứng với Cửu Ngũ, lại là một bậc dương cương, trung chính, vẫn có lẽ được tấn hành chí mình.
Nhưng ở về thì Kí Tế, công đã thành rồi, danh đã lập rồi mà Ngũ lại ở vào vị chí tôn, thấy Nhị là âm nhu ở hạ thể nên Ngũ đối với Nhị không chịu khuất kỉ hạ hiền, té ra cái bằng tạ sở dĩ tấn hành Nhị phải chịu hỏng mất, tượng như người đàn bà muốn ra đi mà mất cái phất che xe nên chưa đi được. (Phất là cái đồ che bốn mặt xe; tục đàn bà Tàu xưa, hễ lúc ra đi, tất có cái phất che xe, bây giờ đàn bà đã mất cái phất thời không thể ra được khỏi cửa).
Nhị muốn đắc dụng với Ngũ mà chưa đắc chí cũng tượng như thế. Tuy nhiên, đạo trung chính Cửu Nhị há lẽ Ngũ bỏ được, chẳng qua thì giờ chưa tới, có chậm trễ ít lâu mà thôi. Nhị cứ giữ đạo chính cho bền, chẳng cần gì bốn cạnh.
Chờ bao giờ cùng hết thời thông, ước chừng bảy ngày mà tự nhiên được phất.
Phất được lại thời tức khắc dậy đi. sở dĩ thủ tượng bằng thất nhật là vì quẻ có sáu vị, đến thất thời biến, biến thời thông nên nói thất nhật đắc. Chữ đắc là phản đối với chữ táng. Vật trục mà đắc là không để ý đến chốn đắc, táng mà chỉ xem ở nơi thì biến mà thôi.
Tượng viết: Thất nhật đắc, dĩ trung đạo dã.
象 曰 : 七日得 , 以中道也 .
Vì Cửu Nhị có đạo trung chính, há lẽ đời không dụng tới nơi? Tuy táng phất mặc dầu, nhưng bảy ngày cũng tự nhiên được lại, nghĩa là chưa dụng ở lúc này, tất nhiên cũng dụng ở lúc khác.
3. Cửu Tam: Cao tông phạt Quỷ phương tam niên, khắc chi, tiểu nhân vật dụng.
九三: 高宗伐鬼方, 三年克之, 小人勿用.
Cửu Tam ở về thì Kí Tế, lấy dương cương ở vào vị dương là một người dụng cương rất mực, dụng cương có ý mạnh quá nên Hào từ mới răn cho rằng: Việc dụng cương chẳng phải khinh dị được.
Tĩ như: Vua Cao Tông đi đánh nước Quỷ phương, vua một nước lớn đi đánh một đám giặc nhỏ, còn phải ba năm sau mới đánh được nó, nên ở thì Kí Tế thời những món tiểu nhân cương cấp chớ nên dụng nó.
Tiểu nhân chẳng phải chỉ vào Cửu Tam, mà chỉ nói trỏng tiểu nhân ở thì ấy.
PHỤ CHÚ: Hào Thượng Lục quẻ Sư cũng có câu: Tiểu nhân vật dụng, nghĩa là những đứa tiểu nhân chớ nên dùng nó làm việc binh là vì tính chất nó cương táo tham lam; nếu dùng nó làm việc binh thời đến nỗi tàn dân hại nước, sở dĩ phải răn bằng vật dụng.
Tượng viết: Tam niên khắc chi, bái dã.
象曰: 三年克之, 憊也
Binh hung chiến nguy, dầu có tam niên mà khắc chi, cũng không phải là đáng khinh dụng (Bái nghĩa là tàn tệ).
PHỤ CHÚ: Ở vào thì Kì Tế, chính là lúc quốc trung vô sự, biến cảnh kí yên, rất đáng lo là một hạng tiểu nhân tham công sinh sự. Tỉ như, người thân thể đương mạnh khỏe mà còn đem thuốc độc công bệnh vào thời lại làm tổn thương nguyên khí, nên Hào từ có ý răn việc dụng binh mà lại cốt có câu: Tiểu nhân vật dụng. Cao Tông phạt Quỷ phương tam niên khắc chi là cốt nói việc dụng binh gian nan lắm, không phải bảo nên dụng binh. Vì vậy nên Tượng Truyện phải thêm chữ bái. Chú ý nhất là câu: Tiểu nhân vật dụng. Hễ thì đã Kí Tế mà còn đeo tiểu nhân lên thời sinh nhiễu dân, e lại quay đến Vị Tế.
4. Lục Tứ: Nhu, hữu y như, chung nhật giới.
六四: 繻有衣袽, 終日戒.
(Như nghĩa là thuyền bị nước vào; y như là đồ để trám lỗ thủng trong thuyền).
Lục Tứ ở thì Kí Tế mà lại bắt đầu vào Thượng Quái, khỏi Ly vào Khảm, Khảm tượng là thủy, tượng là hiểm, chính là thì đạo Tế có hơi động giao nên việc phòng bị càng cẩn thận. May cho Lục Tứ chất nhu vị nhu là một hạng người rất tiểu tâm úy cụ, tượng như người đi thuyền đã sắm sẵn đồ y như, để phòng bị khi nước lọt vào, mà hãy còn trọn ngày răn sợ, không chỗc phút quên, thường như lo thuyền thủng mà nước vào; ở vào thì ấy mà tư hoạn dự phòng được như thế, chắc không ngại gì.
Tượng viết: Chung nhật giới, hữu sở nghi dã.
象曰: 終日戒, 有所疑也.
Ờ vào thì Kì Tế mà tấm lòng an cư, tư nguy, thường thường có ý hoài nghi vậy.
5. Cửu Ngũ: Đông lân sát ngưu, bất như Tây lân chi thược tế, thực thụ kì phúc.
九五: 東鄰殺牛不如西鄰之禴祭. 實受其福.
Đông lân nghĩa là xóm ở phía Đông, Đông là dương phương, chỉ vào hào Ngũ. Tây lân là xóm ở phía Tây, Tây là âm phương, chỉ vào hào Nhị. Sát ngưu nghĩa là giết trâu mà tế nghĩa là lễ tế sơ sài.
Cửu Ngũ với Lục Nhị thảy đắc trung, đắc chính, đức chí thành in nhau, nhưng vì thì hai hào có khác nhau. Nhị ở vào đoạn đầu Kí Tế, tượng như mặt trời vừa mọc lên, mặt trăng vừa thượng huyền nên tiến cảnh còn mạnh lắm. Ngũ ở về giữa đoạn sau Kí Tế, tượng như mặt trời đã gần xế, mặt trăng đã quá rằm nên chỉ cầm chừng mà không thể tiến được nữa.
Vì thì khác nhau như thế nên Nhị, Ngũ trung đức tuy đồng mà về phần hưởng thụ thời Ngũ thua Nhị xa. Tượng như Đông lân tuy tế phong hậu hung mà té ra không bằng nhà Tây lân chỉ tế đơn sơ mà hưởng được phúc thật. Hào từ đây chỉ trọng về chữ thì. Đông lân sát ngưu vẫn cũng được thụ phúc, nhưng so với Tây lân thược tế thời lại có phần kém thua, té ra thịnh tế mà chịu phúc ít, bạc tế mà được phúc nhiều. Đó là vì thì bất đồng nên hưởng thụ có hơn kém khác nhau, so Cửu Ngũ với Lục Nhị có tượng như thế.
Tượng viết: Đông lân sát ngưu, bất như Tây lân chi thì dã; thực thụ kì phúc, cát, đại lai dã.
象曰: 東鄰殺牛, 不如西鄰之時也; 實受其福, 吉大來也.
Đông lân sát ngưu, lễ tế vẫn phong hậu; Tây lân thược tế, lễ tế vẫn đạm bạc, mà cớ sao thực thụ kì phúc, Đông lân lại kém thua Tây lân, há phải tài đức Ngũ thua Nhị rư? Chỉ vì thì của Đông lân không được như Tây lân thì đúng hơn vậy. Ngũ là thì đã muốn suy, bất như Nhị đụng thì tương thịnh, nên Nhị được cát đại lai mà Ngũ thời chỉ vừa bình thường mà thôi. Cát đại lai nghĩa là những việc tốt lành tới hung lắm. Chữ "sơ cát" ở Quái từ, cũng một chữ cát này.
6. Thượng Lục: Nhu kì thủ, lệ.
上六: 濡其首, 厲.
Thượng Lục ở trên hết quẻ, theo như hình quẻ, xem từ trên xem xuống thời Thượng là đỉnh đầu người mà Sơ là hình đuôi. Thượng ở về thì cuối cùng Kí Tế, Kí Tế đã cực rồi mà lại ở trên hết Khảm hiểm thời càng nguy lắm, bản thân Thượng đã âm nhu mà ở địa vị như thế, tượng như người lội qua sông mà đến nỗi nước ngập cả đầu, e mắc nguy bằng trầm nịch kia. Kí Tế mà đến thì tiết này cũng in như thì Thái mà đến lúc sắp Bĩ đó vậy.
Tượng viết: Nhu kì thủ, lệ, hà khả cửu dã.
象曰: 濡其首, 厲, 何可久也.
Nhu kì thủ mà đến nỗi nguy. Thế là Kí Tế đã đến lúc cùng cực rồi, không thể lâu dài được nữa.
PHỤ CHÚ: Ba hào Thượng Quái quẻ Kí Tế, Hào từ lần lần xấu hơn Hạ Quái. Lục Tứ chung nhật giới mà không thấy cát hanh; Cửu Ngũ sát ngưu mà thụ phúc không được như thược tế; nhu kì thủ ở hào Thượng, so với Nhu kì vĩ ở hào Sơ thời lại xấu hơn quá nhiều. Xem đó thời biết họa phúc, thịnh suy thường thừa trừ với nhau mà cùng thường đắp đổi mà tới. Vì đoạn trước Kí Tế, được hưởng sung sướng bằng Kí Tế đã quá nhiều nên đoạn sau Kí Tế, gánh phần lo bằng Kí Tế quá nặng, nhỏ từ một thân một gia, hoặc tiền phú mà hậu bần, hoặc tiền thuận mà hậu nghịch. Lớn đến một quốc gia, một dân tộc, hoặc tiền trị mà hậu loạn, hoặc tiền hiển hách mà hậu suy đồi, thẩy là một lí số như thế. Vậy nên, đọc Dịch rất quý là đắc trung, hễ quá trung là nguy hiểm sắp tới.
Thầy Thiệu Khang Tiết có câu thơ rằng: Rượu nếm hơi say đừng chếnh choáng, hoa xem vừa nở chớ lan man 飲酒莫教愁酩酊, 看花勿到離披(Dánh đánh là đáng say rượu quá chừng; ly phi là khi hoa nở đã quá rữa). Uống rượu mà đã đến nỗi dánh đánh là rượu đã hết thú. Xem hoa mà đã đến lúc ly phi là hoa đã lạt màu. Việc thiên hạ mà đã đến lúc quá đắc ý, chính là thì tiết dánh đánh, ly phi.
Ba hào ở Ngoại Quái Kí Tế, chính đúng với thì tiết ấy. Vậy nên, quân tử tư hoạn nhi dự phòng chi, tất phải lo ở khi ba hào Nội Quái. Nếu đã đến khi ba hào ở Ngoại Quái trăng rằm rồi phải khuyết, hoa nở rồi phải tàn, chẳng còn gì mà bổ cứu được nữa. Tượng Truyện hào Thượng Lục có câu: Hà khả cứu dã, ai ở vào thì Kí Tế mà đã đến hào quẻ trên chẳng nên gai mình rỡn ốc hay sao!
64. QUẺ HỎA THỦY VỊ TẾ
Ly trên; Khảm dưới
Quẻ này là quẻ Hỏa Thủy Vị Tế. Khảm hạ cũng là Nội Khảm, Li thượng cũng Ngoại Li. Li hỏa, Khảm thủy, nên tên quẻ đọc bằng Hỏa Thủy Vị Tế.
TỰ QUÁI
Tự quái: Vật bất khả cùng dã, cố thụ chi dĩ Vị Tế, chung yên.
序卦: 物不可窮也, 故受之以未濟, 終焉.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Kí Tế, tiếp lấy quẻ Vị Tế là vì cớ sao?
Trên đây là quẻ Kí Tế, tức là cùng rồi, vật lí sinh sinh bất cùng, không lẽ nào đến Kí Tế mà hết được. Vậy nên ở cuối cùng Kinh đặt quẻ Vị Tế vào. Quẻ Vị Tế là quẻ kết thúc toàn bộ Dịch, chứ không phải chỉ vì tiếp quẻ Kí Tế mà thôi.
Dịch lí sở dĩ tác dụng vì hay biến dịch mà vô cùng. Vậy nên đặt Vị Tế ở sau hết Kinh, Vị Tế thời là chưa cùng, đã chưa cùng thời còn sinh sinh mãi.
Nguyên lai trong vũ trụ, nhất thiết giống gì đã hữu hình, tất nhiên hữu hoại, lớn đến toàn thế giới, như nhật luân, địa cầu, tinh cầu, v.v. cho đến tất thảy các giống trong vũ trụ, hễ động lực có một ngày đình chỉ, nhiệt lực có một ngày tiêu diệt, đại vận hội có một ngày tối chung, ngày tối chung đó tức là ngày Kí Tế, Kí Tế thời cùng, cùng thời biến hoại. Phật gia bảo rằng kiếp tận. Thiên Chúa Gíao bảo rằng mạt nhật, nên trong Dịch cũng phải có Kí Tế. Tuy nhiên, cái cùng mà có biến hoại, đó chỉ là thuộc về phần hình, ở Phật gia gọi bằng sắc, ở Dịch gọi bằng khí, còn thuộc về phần vô hình mà chúng ta không thể thấy, Phật gia thời gọi bằng không, ở Dịch thời gọi bằng đạo. Cái đó không bao giờ cùng mà cũng không bao giờ hoại, nên Phật gia có câu: Nhất thiết không, đáo để bất hoại 一切空, 到氐不壞, mà Nho gia cũng có câu: Vũ trụ khả biến, đạo bất khả biến 宇宙可變, 導不可變.
Vì cái bất biến bất hoại đó, cứ tồn tại hoài mà cái khả biến khả hoại kia, cũng lần này chết thời lần khác đẻ ra. Nhân vì thế mà cuối cùng Dịch phải đặt quẻ Vị Tế. Vị Tế nghĩa là chưa cùng được.
Dịch đến quẻ sáu mươi tư, tuy nói rằng Dịch hết rồi, nhưng cái hết đó, chẳng qua là Dịch thuộc về phần hữu hình, tức là Quái hào văn tự, chứ như thuộc về phần vô hình, tức là lí giao dịch, biến dịch, bất dịch thời tuyệt đối không bao giờ cùng. Vậy nên, ở cuối cùng Kinh, phải đặt quẻ Vị Tế.
SOÁN TỪ
Vị Tế, hanh, tiểu hồ ngặt tế, nhu kì vĩ, vô du lị.
未濟, 亨, 小狐汔濟, 濡其尾, 無攸利.
Chữ Tế nguyên có hai nghĩa. Một nghĩa Tế là cùng, vì toàn bộ Dịch mà đặt Vị Tế ở sau hết thời lấy bằng nghĩa ấy, Vị Tế nghĩa là chưa cùng. Lại một nghĩa nữa, Tế là nên, hay Tế là qua, chỉ theo bản thân quẻ mà gọi bằng Vị Tế thời lại lấy nghĩa ấy. Vị Tế nghĩa là việc chưa nên, bởi vì thể quẻ: Li hỏa ở trên, hỏa tính viêm thượng [không hạ giao với Khảm; Khảm là tính nhuận hạ] mà không thượng giao với Li. Thủy, hỏa bất giao mà té ra lửa không sôi được nước, nước không dẹp được lửa nên không thành được công dụng của thủy, hỏa, vậy nên, đặt tên quẻ bằng Vị Tế. Ở vào thì Vị Tế, vẫn là việc chưa nên, nhưng há phải không nên đâu, chỉ là chưa nên mà thôi, chờ thì đến thời kết quả cũng nên. Tỉ như, người đứng bên bờ sông này vẫn chưa qua bên kia sông, nhưng chẳng bao lâu có đò ngang tới, tất nhiên cũng qua nên nói rằng: Vị Tế, hanh.
Bởi vì Vị Tế không phải là Bất Tế nên trong thì ấy vẫn có lẽ hanh, nhưng tất phải có đức nhu trung, biết xem thì thức thế như Lục Ngũ, thời sau mới hanh được. Nếu chẳng hay xem thì thận xử mà nóng gấp láu táu như con tiểu hồ, vừa sắp sửa qua mà đã lấm hết đuôi. Thế là không qua nổi, như thế là bất năng tế.
Ngật tế là sắp sửa qua. Nhu kì vĩ ý là không qua được. Không qua được tức là Bất Tế, còn có lị gì.
PHỤ CHÚ: Quái từ ở Kí Tế nói rằng hanh, tiểu là nói bằng việc dĩ vãng. Quái từ Vị Tế nói hanh là dự đoán về phúc tương lai.
Việc dĩ vãng thời hanh hữu hạn, phúc tương lai thời hanh vô cùng. Hanh ở Kí Tế, ví như con đã trưồng thành thời mạnh hay yếu, trí hay ngu là việc đã ấn định. Hanh ở Vị Tế, ví như con còn thơ bé thời tương lai mạnh hung, hay khôn lớn còn chưa biết chừng.
Dịch sở dĩ quy kết bằng Vị Tế, chính như Xuân mà chưa đến lúc hoa nở, đêm mà chưa tới lúc trăng tròn, chắc hi vọng về tiền đồ hãy còn nhiều lắm, ai dám bảo rằng Vị Tế mà hẳn là Bất Tế đâu. Vậy nên, Quái từ nói Vị Tế, hanh lại còn hơn Kí Tế, hanh, tiểu, kia vậy.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Vị Tế, hanh, nhu đắc trung dã. Tiểu hồ ngật tế, vị xuất trung dã, nhu kì vĩ, vô du lị, bất tục chung dã. Tuy bất đáng vị, cương, nhu ứng dã.
彖曰: 未濟, 亨, 柔得中也. 小狐汔濟, 未出中也, 濡其尾, 無所利, 不續終也; 雖不當位, 剛柔
應也.
Soán viết: Vị Tế hanh, nhu đắc trung dã. Xem vào đức quẻ có như Lục Ngũ âm nhu mà ở được trung vì là có đức nhu trung, lại ứng với Cửu Nhị có tài cương trung, như thế mà ở vào thì Vị Tế, chắc tương lai cũng hanh.
PHỤ CHÚ: Hai quẻ Kí Tế, Vị Tế, thảy nhân có Khảm thủy mà đặt tên, nhưng Soán Truyện ở hai quẻ thời lại chuyên trọng về nhu đắc trung là chỉ vào hào chính giữa hai quẻ Li. Ý thánh nhân muốn cho ta biết, Khảm với Li không thể nào thiếu được.
Tiểu hồ ngật tế, vị xuất trung dã.
Quái từ thủ tượng bằng tiểu hồ, nhưng chỉ nói ngật tế mà thôi. Thế là sắp sửa qua mà chưa qua vì chưa ra khỏi Khảm hiểm vậy. Trung nghĩa là ở giữa Khảm hiểm.
Nhu kì vĩ, vô nhu lị, bất tục chung dã.
Đạo lí trong thiên hạ, hễ tiến quá hăng thời lui càng chóng. Thỉ tuy hăng mạnh mà đến lúc chung không kế tục được. Thế thời không làm việc gì mà lợi. Bất tục nghĩa là chẳng tiếp tục.
Tuy bất đáng vị, cương, nhu ứng dã.
Tuy sáu hào trong quẻ, thảy nhu cư dương vị, cương cư âm vị, bất đáng vị mặc dầu nhưng thảy là cương ứng với nhu, nhu ứng với cương, có thể đồng lao hợp tác với nhau mà làm công việc Tế, hiện tại tuy Vị Tế mà tương lai chắc cũng được hanh là vì cương, nhu hiệp ứng với nhau đó vậy.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Hỏa tại thủy thượng, Vị Tế. Quân tử dĩ thận biện vật cư phương.
象曰: 火在水上, 未濟. 君子以慎辨物, 居方.
Hỏa tại thủy thượng là hai giống thảy ở trái chốn, lửa lên đốt ở dưới nước mà bây giờ lửa ở trên nước, nước đáng đặt ở trên lửa mà bây giờ nước ở dưới lửa. Thế là thủy, hỏa bất giao, sở dĩ thành ra Vị Tế. Quân tử xem tượng ấy mà biết lẽ trong thiên hạ, hễ một vật nào tất có chốn ở của vật ấy. Tỉ như, sĩ nên ở chốn học đường; thương nên ở chốn thị thành; nông nên ở chốn điền dã; công nên ở chốn công trường; những loài ấy quân tử phải xem xét kỹ càng để biện cho ra vật nào vào phương ấy, vật thảy ở cho đúng phương thời vật nào cũng có công dụng. Đó là cách quân tử xử trí ở thì Vị Tế vậy.
Biện vật nghĩa là phân biệt cho ra các loài vật. Cư phương nghĩa là bày đặt cho nó ở đúng phương.
Tỉ như: Con nhà cày mà đem vào ở chốn thành phố, người đi học mà đem vào ở chốn ăn chơi, người công nghệ mà đem vào ở chốn quan phủ. Như những loài ấy là vật ở trái phương, thành ra sở nhu trái mất sở năng, sở cư trái mất sở lập, còn làm sao Vị Tế mà được rư.
PHỤ CHÚ: Kí Tế là việc đã nên rồi, cần nhất là lo cho vô hoạn, nên Tượng Truyện bảo cho "Tư hoạn dự phòng". Vị Tế là việc chưa làm nên, cần nhất là khiến cho hữu dụng nên Tượng Truyện bảo cho "Thận biện vật cư phương". Biện vật cư phương là quy mô để làm cho đến Kí Tế. Tư hoạn dự phòng là kế hoạch làm cho khỏi quay lại Vị Tế, cũng in như Khảm, Ly hỗ tương vi dụng đó vậy.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1.Sơ Lục: Nhu kì vĩ, lẫn.
初六: 濡其尾, 吝.
Sơ Lục bản chất âm nhu, vẫn không đủ tài tế hiểm, bắt đầu ở vào thì Vị Tế mà lại bước chân vào Khảm hiểm; Khảm thủy ở đường trước, muốn qua mà không thể qua được xong, tượng là nhu kì vĩ mà đến nỗi lẫn.
Tượng viết: Nhu kì vĩ, diệc bất tri cực dã.
象曰: 濡其尾, 亦不知極也.
Sơ Lục không tự tri mình là nhu nhược mà toan muốn qua sông, đến nỗi xuống nước mà mắc lấy nhu vĩ, cũng vì không biết tính cho đến cuối cùng vậy.
Tri cực nghĩa là biết đến cuối cùng, cũng như chữ tri chung. Bất tri cực, như người ta thường nói, biết đầu mà không biết đuôi.
2. Cửu Nhị: Duệ kì luân, trinh, cát.
九二: 曳其輪, 貞吉.
Cửu Nhị có tài dương cương thượng ứng với Lục Ngũ. Ngũ ở vị tôn, Nhị ở vị ti; cương đối với nhu thời sợ có khi sinh lờn lã; ti đối với tôn thời lại không nên quá dụng tính cương, nên Hào từ bảo cho Cửu Nhị rằng: Ở vào thì gian nguy Vị Tế, có tài như Nhị thiệt quý lắm. Nhưng Nhị phải biết, Lục Ngũ kia vị tuy tôn mà tính lại nhu, nên Nhị cứ ỷ tính dương của mình mà tấn bức Ngũ e không khỏi sinh mối nghi kị mà làm hỏng việc của mày. Mày chỉ nên tự giảm thế lực của mày, thung dung thủng thẳng vừa bước vừa dừng, tượng như kéo lết lết cái bánh xe mà chớ tiến gấp. Thế thời đạo trinh chính của mày kết quả được cát.
Duệ kì luân, ý nghĩa cũng như hào Sơ quẻ Kí Tế, nhưng bên kia thời chỉ được vô cựu mà bên này lại được trinh cát là vì thời đại bất đồng, mà lại bất trung với đắc trung có khác nhau nên hiệu quả cũng khác nhau.
Tượng viết: Cửu Nhị trinh cát, trung dĩ hành chính dã.
象曰: 九二貞吉, 中以行正也.
Hào Cửu, vị Nhị, theo như thường lệ thời bất chính, nhưng đây lại nói rằng trinh cát là vì Nhị có đức trung để làm được chính. Tượng Truyện đây phát minh ý nghĩa Dịch rất minh bạch. Dịch vẫn quý hai chữ trung chính như nhau, nhưng trung lại quý hơn chính, bởi vì chính có lẽ bất trung, duy đắc trung thời không bao giờ bất chính.
Trình Truyện nói rằng: Chính hữu bất trung, trung vô bất chính. Trinh cát ở hào này là chỉ vì đắc trung.
3. Lục Tam: Vị Tế, chinh, hung, lị thiệp đại xuyên
六三: 未濟, 征凶, 利涉大川.
Lục là âm nhu, đã vô tài mà lại bất trung, bất chính; ở vào thì Vị Tế mà chỉ cậy bằng năng lực của Tam thời thiệt không làm sao tế nổi.
Nếu tấn hành càn thời mắc hung, nhưng mà mưu sự tuy tại nhân mà thành sự lại thường tại thiên. Trong thiên hạ cũng có một hạng người, tài không hay gì, nhưng vì thì may đưa đẩy, hoặc chúng bạn dắt dìu, cũng thường làm nên việc được.
Lục Tam tài đức tuy kém mà thời thế thời hay. Vị Tế đã tấn vào đoạn giữa là có cơ gần Tế; Khảm hiểm đã lên đến cuối cùng là có cơ xuất hiểm mà lại chính ứng với Thượng Cửu là dương cương, lấy tài dương cương mà giùm giúp cho Tam, chẳng làm việc khác lớn mặc dầu, nhưng chỉ làm bằng việc thiệp đại xuyên thời như thời thế của Tam cũng thuận lị được.
Hào từ này ý nghĩa hai câu trái nhau, nhưng vẫn bổ túc cho nhau, câu Vị Tế chinh hung là nói theo về tài Lục Tam, vần không phải là người tế thế nên Hào từ có câu ấy là chuyên trọng về phần nhân sự. Câu lị thiệp đại xuyên thời lại nói theo thì của Lục Tam.
Vị Tế đã đến giai đoạn giữa mà lại Tam là Khảm chi chung, thì ấy chính nhịp hay cho người xuất hiểm, nên Hào từ có câu lị thiệp đại xuyên là kiêm trọng về thiên thì. Dịch đạo biến hóa vô phương là như thế.
Tượng viết: Vị Tế chinh hung, vị bất đáng dã.
象曰: 未濟征凶, 位不當也.
Vị Tế sở dĩ chinh hung là vì hào âm ở vị dương là âm nhu mà bất trung, bất chính, tài vị Lục Tam như thế nên chinh thời hung, còn như chỉ nói về thì Lục Tam, thời lị thiệp đại xuyên cũng được.
PHỤ CHÚ: Hào từ sáu hào quẻ Kí Tế, không hào nào có tên quẻ. Đến quẻ Vị Tế thời Hào từ năm hào, không tên quẻ. Duy Hào từ Lục Tam có hai chữ Vị Tế.
Chúng ta đọc Hào từ Lục Tam, nên tham quan hào Cửu Nhị, Cửu Tứ; Nhị, Tứ thảy có chữ trinh cát mà Lục Tam thời có chữ chinh hung, nhưng chữ chinh hung cặp liền với chữ Vị Tế, ý thánh nhân rằng: Ở vào thì Vị Tế, chỉ nên cư trinh thời cát, như hào Nhị, hào Tứ kia. Huống gì Lục Tam thời tài hào quá kém, ở vào thì Vị Tế mà tài như thế, chinh tất phải hung.
Nhưng thánh nhân lại sợ chúng ta thấy chữ chinh hung mà nghĩ rằng thì Vị Tế là tuyệt đối không tốt nên lại thêm vào câu lị thiệp đại xuyên, khiến cho chúng ta biết: Thì đã đến, Lục Tam vẫn có thể gần tốt, duy như tài Lục Tam, thời mới chinh hung mà thôi. Tiên Nho có nói rằng: Thiên hạ vô bất khả vi chi thì. Chỉ thấy câu Vị Tế, chinh hung mà đổ tội tại thì Vị Tế, xem câu lị thiệp đại xuyên mới hiểu được ý.
4. Cửu Tứ: Trinh, cát, hối vong. Chấn dụng phạt Quỷ phương tam niên, hữu thưởng vu đại quốc.
九四: 貞吉, 悔亡. 震用伐鬼方, 三年有賞于大國.
Cửu Tứ có tài dương cương mà địa vị sở xử lại ở vào Thượng thể, thoát khỏi Khảm hiểm mà tấn lên Li minh, lại ở trên minh có Lục Ngũ là một bậc văn minh nhu trung, quân thần tương đắc mà gặp thì Vị Tế đã quá nửa, công việc Tế đã sắp tới nơi, đáng lẽ được cát, nhưng hiềm vì hào Cửu cư Tứ, e có bất chính mà hữu hối chăng, nên Hào từ răn cho rằng: Tứ đi! Tài mày, địa vị mày vẫn cũng xứng đáng, nhưng chỉ nên thêm trinh cố vào thời được cát mà hối vong. Vả lại, công việc tế thế, nếu cố tức thời bất thành mà dục tốc thời bất đạt.
Mày lại phải phấn phát tinh thần, cổ vũ dũng khí, gặp một việc cần phải dụng binh bài ngoại như đi đánh nước Quỷ phương tất phải cố công ra làm; dầu lâu đến ba năm mới có thưởng tứ ở nước lớn cũng phải trinh cố mà làm lấy.
Chấn nghĩa là nhức động; dụng phạt Quỷ phương là ý bảo không nên cô tức, bởi vì, ở thì Vị Tế mà làm việc hưng suy bát loạn, tất phải có dụng uy mới làm nên.
Tam niên là ý bảo không thể dục tốc, bởi vì đạo Tế trong thiên hạ, đã đồ đại sự thời không nên cấp cận công.
Phạt Quỷ phương mà lâu đến ba năm, vì có thế, mới toàn được chữ trinh cát.
Tượng viết: Trinh cát hối vong, chí hành dã.
象曰: 貞吉悔亡, 志行也.
Tài Cửu Tứ vẫn đủ hữu vi mà lại được thì vừa đúng, chỉ duy gia thêm trinh cố thời phát triển được chí mình, chẳng những cát, hối vong mà thôi mà lại hay dụng phạt Quỷ phương tam niên, thực hành được chí trinh đó vậy.
PHỤ CHÚ: Toàn Dịch sáu mươi tư quẻ cát hung thời quan hệ ở thì mỗi quẻ, mà mỗi quẻ sáu hào thời cát hung lại quan hệ ở thì mỗi hào. Tựu trung khả cát, khả hung, hoặc do cát mà quay lại hung, hoặc do hung mà chuyển sang cát, rất quan hệ là hai hào Tam, Tứ.
Tức như Cửu Tam quẻ Thái thời gai tởm cho vận bình bí; Cửu Tứ quẻ Cách thời vui mừng cho hồi cải mệnh, thảy vì thời thế mà xui nên thế, nhưng đắc thì đã đành, mà tạo thì lại cần phải có tài. Cửu Tam quẻ Thái vì quá cương nên phải dạy cho gian trinh; Cửu Tứ quẻ Cách thời cương, nhu tương tế nên tán rằng hữu phu.
Như Cửu Tứ đây, đành có tài dương cương, nhưng cũng nhờ gặp thì. Ở vào thì Vị Tế, hết Khảm tới Li, vận bĩ trước đã qua mà vận thái sau gần tới nên làm nổi việc lớn, như phạt Quỷ phương tam niên, uy danh động đến nước ngoài, ân thưởng khắp ở nước trong nên Tượng Truyện tán cho rằng chí hành dã, thiệt mừng cho có tài tế thế mà lại gặp thì.
Xưa nay, những người có chí mà không hành được biết là bao nhiêu, cùng vì không được như thì như Cửu Tứ vậy.
5. Lục Ngũ: Trinh, cát vô hối, quân tử chi quang, hữu phu, cát.
六五: 貞吉, 無悔, 君子之光, 有孚, 吉.
Chữ trinh, cát đây, với chữ trinh, cát ở hào Nhị, hào Tứ, ý nghĩa khác nhau chút đỉnh.
Trinh ở Nhị, Tứ thời có ý là lờí răn đe, Trinh ở Lục Ngũ thời chỉ là lời tán mỹ. Lục Ngũ đã làm chủ cho Ngoại Li là văn minh đã có đức sẵn mà lại nhu đắc trung là một người hay hư tâm lạc thiện, hạ ứng với hào Cửu Nhị là bạn dương cương. Vì Ngũ sẵn có đức trung trong mình nên hết lòng tin Nhị, mà Nhị cũng hết lòng giúp Ngũ. Nhu trung mà trinh như thế, chắc được cát mà vô hối.
Đức đã tốt, bạn cũng hiền, lại được thì Vị Tế đã đến lúc gần cùng, in như trời mưa sắp tạnh mà vừng nhật hiện ra, cảnh đêm đã tàn mà vừng đông vừa rạng, vẻ văn minh của quân tử rực rỡ biết dường nào.
Vả lại quang huy đó, không chỉ rực rỡ ở bề ngoài mà thôi, công xứng với đức, thực xứng với danh, vẫn là chí thành phát lộ kia mà. Như thế, chắc được cát mà lại cát thêm.
Hai chữ cát ý nghĩa có khác nhau, chữ cát trên dính với chữ trinh là cát thuộc về phần đức; chữ cát dưới dính với quang hữu phu là cát thuộc về phần công, kết quả thời đồng mà tạo nhân thời khác, hào này công đức kiêm ưu, cát nhi hữu cát. Tuy căn bản vì bản thân Ngũ mà cũng nhờ có sức Nhị, Tứ phụ bật cho nên Hào từ chung nhau bằng chữ trinh cát, để cho rõ ý thượng hạ đồng đức.
Tượng viết: Quân tử chi quang, kì huy cát dã.
象曰: 君子之光, 其暉吉也.
Tia sáng của Ngũ là vì có đức văn minh mà phát việt rõ ràng nên Tượng Truyện lại tán thêm rằng: Kì huy cát dã (Huy nghĩa là tia sáng chóe lòe).
6. Thượng Cửu: Hữu phu vu ẩm tửu, vô cựu, nhu kì thủ, hữu phu thất thị.
上九: 有孚于飲酒, 無咎, 濡其首, 有孚, 失是.
Địa vị Thượng Cửu ở cuốì cùng Vị Tế, tiền đồ có hai ngả. Một là cực kì Vị Tế thời không biết Tế vào đâu. Một là Vị Tế chi cực chính là thì quay lại Tế. Theo như nghĩa trước thời địa vị Thượng là xấu; theo như nghĩa sau thời địa vị Thượng lại tốt.
Thì nghĩa vẫn như thế mà tốt hay xấu thời lại quan hệ ở người nên Hào từ giả thiết làm hai cách mà bảo cho Thượng rằng: Thượng Cửu dương cương ở trên quẻ là dương chi cực, ở cuối cùng thể Li là minh chi cực; cương cực thời chẳng sợ bất cương mà chỉ sợ quá cương; minh cực thời chẳng sợ bất minh mà chỉ sợ quá minh. Quá cương, quá minh thời hay mắc phải bệnh táo vọng. Đã táo vọng thời khinh cử bạo động mà đến nỗi ngộ sự thời thất thì.
Bây giờ đã ở thì Vị Tế chi chung, các công việc hữu vi đã có những người hữu vi như Tứ, Ngũ làm ráo. Thượng chỉ nên ưu du hàm dưỡng, tự tín lấy đạo nghĩa trong mình mà chờ thì vận đưa đến. Bởi vì Thượng là người vô vị mà lại gặp lấy thì Tế chi chung, chỉ nên lạc thiên an mệnh là một cách vừa phải. Hữu phu nghĩa là tự tín; ẩm tửu nghĩa là tự lạc. Câu hữu phu vu ẩm tửu, cũng như câu nhu vu tửu tự ở quẻ Nhu; chỉ là sự ngoại tiêu giao, chờ thì mà động, chứ không phải ẩm tửu thiệt.
Nếu trái lại, tự lạc mà đến nỗi quá chừng, mê mẩn với trăng hoa, mệt mà cùng sen cúc, thậm đến nỗi rượu lấm cả đầu, như thế lại là túng tứ thất thì, té ra cách tự tín của Thượng thái vô nghĩa lí.
Nhu kì thủ nghĩa là ẩm tửu mà say mê; hữu phu thất thị nghĩa là hữu phu mà trái lẽ. Chữ hữu phu đây khác chữ hữu phu ở mọi nơi; phu chỉ có nghĩa là tự tín mà thôi. Chữ phu ở quẻ Trung Phu, với chữ phu ở mọi nơi thời phu là chí thành.
Lòi Hào từ đây, chẳng phải bảo Thượng Cửu chỉ vui chơi mà thôi. Vì sợ Thượng Cửu quá dụng tài cương minh mà vọng động sinh sự, tất làm hỏng thì nghĩa của Thượng. Vậy nên Hào từ răn cho như thế. Nếu chỉ hữu phu vu ẩm tửu mà không đến nỗi nhu kì thủ thời vừa đắc trung. Xem Tượng Truyện dưới này thời rõ.
Tượng viết: Ẩm tửu nhu thủ, dìệc bất tri tiết dã.
象曰: 飲酒濡首, 亦不知節也.
Ẩm tửu vẫn không hại gì, nhưng mà đến nổi nhu thủ cũng là quá chừng không biết tiết vậy. Chữ tiết ở đây như nghĩa chữ thì, không biết tùy thì mà làm cho đúng đạo trung là bất tri tiết.
PHỤ CHÚ: Bắt đầu đọc quẻ Càn đầu hết Dịch thời thấy câu lục vị thì thành, lại có câu dữ thì giai hành, dữ thì giai cực. Vì dữ thì giai hành mà có sáu mươi tư quẻ, ba trăm tám mươi tư hào; vì có dữ thì giai cực mà có hai quẻ Kí Tế, Vị Tế ở cuối cùng Kinh.
Ở quẻ Kí Tế có câu bất như Tây lân chi thì dã. Ở quẻ Vị Tế có câu diệc bất tri tiết dã. Chữ Tiết chính là chữ thì.
Suốt đầu suốt đuôi, triệt thượng triệt hạ, chỉ một chữ thì vừa tóm hết bộ Dịch. Nhưng chỉ nói bằng thì mà thôi, té ra hoàn toàn thuộc về phần tự nhiên nên phải lấy chữ tiết thay vào chữ thì, càng thấy được đạo lí thuộc về phần đương nhiên.
Vì thì mà phải có việc, mà làm việc lại phải theo thì, muốn tùy thì biến Dịch cho đúng với đạo trung nên phải có Dịch.
Nhưng cuối cùng Dịch, lại đặt quẻ Vị Tế, thời chúng ta càng nên biết rằng: Thì không bao giờ cùng, việc cũng không bao giờ xong, mà Dịch cũng không bao giờ hết. Đông chi chung, tức là Xuân chi thỉ, dạ chi chung tức là trú chi thỉ. Tắc chi chung, tức là thông chi thỉ.
Chúng ta tùy thì xử sự, chỉ cần nhất là hai chữ tri tiết.
Tiết Hạ chí tới mà lo soạn sửa sắm áo cát; tiết Đông chí qua mà lo sắm sửa áo cầu; tiết Lụt chưa tới mà lo dự bị thuyền bè; tiết Hạn chưa tới mà lo dự bị đồ tát nước. Trăm việc, ngàn việc mà thảy biết tiết như thế thời có bao giờ lo thất bại đâu.
Chúng ta nhận kỹ ý nghĩa chữ Vị Tế mới biết được thì vận vẫn là vô cùng. Nhận được ý nghĩa hai chữ tri tiết, lại biết được thiên thì cũng cần có nhân sự. Thì là tạo hóa tự nhiên, chung tắc hữu thỉ; tiết là đạo lí đang nhiên, tri mới năng hành. Ý nghĩa Dịch dạy người thâm thiết như thế, chúng ta khi mở quyền mà xem, cũng nên ở khi xếp quyền mà nghĩ, chứ không phải đọc quẻ xem hào mà xong.
Nhận xét
Đăng nhận xét