PHAN BỘI CHÂU - KINH DỊCH 3
11. QUẺ ĐỊA THIÊN THÁI
Khôn trên; Kiền dưới
Quẻ này là quẻ Địa Thiên Thái. Càn ở dưới cũng là Nội Càn, Khôn ở trên là Ngoại Khôn. Khôn là Địa, Càn là Thiên, nên tên quẻ đọc bằng Địa Thiên Thái.
TỰ QUÁI
Tự quái: Lí nhi thái, nhiên hậu an, cố thụ chi dĩ Thái, Thái giả thông đã
序卦: 履而泰, 然後安, 故受之以泰, 泰者通也.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Lí tiếp lấy quẻ Thái là vì cớ sao?
Bởi vì Lí nghĩa là lễ, cũng có nghĩa là giày là đi; giày đi được an ổn, vậy sau mới thỏa thích. Vậy nên sau quẻ Lí tiếp lấy quẻ Thái. Thái nghĩa là an thích, cũng có nghĩa là thông thuận.
Tượng quẻ này, Khôn âm ở trên là khí âm thượng đẳng mà giao tiếp với dương. Càn dương ở dưới là khí dương hạ giáng mà giao tiếp với âm. Nhị khí giao hòa với nhau, thời vạn vật sinh trưởng mà được thông thái, nên đặt tên quẻ bằng Thái.
PHỤ CHÚ: Khí âm dương nguyên là vô hình, đã vô hình, thời không chỉ rõ ra được. Vậy phải mượn ba vạch quẻ để miêu tả khí vô hình. Ba nét Càn ở dưới thời thấy là thiên tại hạ, nhưng thiên đó chẳng phải là thiên hữu tượng, mà thiên chỉ là khí dương. Ba nét Khôn ở trên thời thấy là địa tại thượng, nhưngđịa đó chẳng phải là địa hữu hình, mà địa chỉ là khí âm.
Khí âm thông lên, khí dương thông xuống. Thế là âm dương hòa hiệp, thiên,địa tương giao, nên đặt tên quẻ bằng Thái.
Nếu như thiên, địa hữu hình, mà địa trên, thiên dưới, té ra thiên, địa điên đảo, như câu người ta thường nói: Huyền hoàng dịch vị, lại còn thành ra thế giới gì nữa, xin ai học Dịch chớ nhận lầm. Trái lại, thiên thượng, địa hạ, mà nói rằng Bĩ, cũng ý nghĩa như thế.
SOÁN TỪ
Thái, tiểu vãng, đại lai, cát hanh. 泰, 小往大來, 吉, 亨.
Ý nghĩa tên quẻ sở dĩ đặt bằng Thái, đã thích rõ như trên đây. Đây chỉ thích nghĩa Quái từ. Tiểu chỉ vào âm; đại chỉ vào dương; vãng là qua ở phía ngoài; lai là lại ở phía trong.
Quẻ này: Ba âm ở Ngoại Quái là âm qua ở ngoài; ba dương ở Nội Quái là dương lại ở trong. Theo về hình tượng ở trên mặt quẻ, có hai ý nghĩa: Một là, dương là khí trời hạ giáng, mà giao với đất, âm là khí đất thượng thăng mà giao với trời, trời đất giao với nhau là âm dương hòa sướng, thời vạn vật sinh thành, đó là Thái thuộc về thiên đạo. lại một nghĩa thuộc về nhân sự: đại là quân thượng, tượng như Càn; tiểu là thần hạ, tượng như Khôn. Khôn thượng, tức là phe thần hạ đem hết tinh thành mà cung cấp cho quân thượng. Càn hạ, tức là phe quân thượng ti đáng thân thể mà chiều đại thần hạ: cũng là tiểu vãng, đại lai mà thành được Thái ở việc nước.
Lại nói rộng ra đến việc thiên hạ, bao nhiêu dương là quân tử, bao nhiêu âm là tiểu nhân. Càn ở Nội Quái, tượng là quân tử đắc thế mà dụng sự tại Nội; Khôn ở Ngoại Quái, tượng là tiểu nhân thất thế mà lánh xa tại ngoại. Đó cũng là tiểu vãng, đại lai mà thành được Thái ở trong thiên hạ. Thiên thì, nhân sự đã thảy được như thế mới là tốt lành và hanh thông.
PHỤ CHÚ: Học giả đọc Dịch hết quẻ này nên nghiên cứu lẽ âm, dương tiêu, trưởng ở trong Dịch. Ở trong vũ trụ tuần hoàn biến hóa, dầu không gian hay thì gian, kể dọc từ vô thỉ đến vô chung, kể ngang từ Nam cực đến Bắc cực, chẳng biết bao nhiêu là việc phúc họa lành dữ, thịnh suy, trị, loạn, rút cùng lại thời chỉ có âm, dương đắp đổi nhau tác dụng mà thôi.
Lệ trong Dịch: dương là minh, âm là ám; dương là thực, âm là hư; dương là phú, âm là bần; dương là quý, âm là tiện; dương là đại, âm là tiểu.
Ở trên mặt chữ vẫn có phân biệt như thế, nhưng theo về chí ý của Dịch, âm và dương vẫn đắp đổi nhau mà tác dụng, chẳng bao giờ cô dương mà sinh, cũng chẳng bao giờ độc âm mà thành, âm tất nhờ có dương mà thành, dương tất nhờ có âm mới sinh.
Vẫn là lẽ tự nhiên, vạn cổ bất dịch, nhưng đó chỉ luận lí mà thôi, đến như nói sự thực, thời phúc hay họa lành hay dữ, lại kết quả vì âm tiêu, [dương] trưởng tranh nhau mà sinh ra, lẽ ấy quan hệ rất lớn.
Vì cớ sao vậy? Dương có tượng là quân tử, âm có tượng là tiểu nhân. Hễ những người nhân cách quang minh chính đại là quân tử, mà thuộc về phần dương. Hễ những người nhân cách nhu hiểm tì tà là tiểu nhân, mà thuộc về phần âm. Về phần thiên đạo, chẳng bao giờ âm, dương thiếu một phía mà thành được; về phần nhân sự chẳng bao giờ quân tử, tiểu nhân thiếu một phía mà làm được.
Nhưng mà múi manh quan hệ thời cốt ở tiêu, trưởng về phía nào? Dương trưởng, âm tiêu thời thiên đạo mới thái được. Quân tử trưởng, tiểu nhân tiêu thời nhân sự mới thái được.
Trái lại, âm trưởng, dương tiêu, thời thiên đạo bĩ: tiểu nhân trưởng, quân tử tiêu, thời nhân sự bĩ. Dịch là dĩ thiên đạo minh nhân sự 易以天道明人事. Vậy nên có hai quẻ Thái và Bĩ.
Hai quẻ ấy thảy ba nét âm, ba nét dương, hai bên vẫn cân địch nhau, nhưng vì quẻ Thái thời dương đương lúc trưởng thịnh, mà âm đã đến lúc tiêu mòn, tượng là quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu, thời thành ra Thái.
Trái lại, quẻ Bĩ thời âm đương lúc trưởng thịnh mà dương đã đến lúc tiêu mòn, tượng là tiểu nhân đạo trưởng, mà quân tử đạo tiêu nên thành ra Bĩ. Nhân quả rất hiển nhiên, nhưng chúng ta muốn chứng minh cho rõ lí âm, dương tiêu, trưởng, thời phải giải thích như thế này:
Nguyên thuần âm là quẻ Khôn là âm thịnh chi cực, cực thời phải tiêu, nhân đó một nét dương thay vào dưới Khôn Sơ thành ra quẻ Phục. Phục là nhất dương mới sinh, sinh đến hai nét, thành ra quẻ Lâm. Quẻ Lâm là quẻ Khôn biến đến hai nét là Nhị dương đã tiệm trưởng, từ đó dương trưởng lần lần; Khôn âm biến đến ba nét thành ra quẻ Thái nên quẻ Thái có tam dương ở Nội Quái, mà thành ra Nội Càn, Ngoại Khôn. Xem như tằng thứ quái biến, thời dương có thể chiếm phần ưu thắng, âm có cơ chịu đường liệt bại, vì thế mà dương trưởng hoài, âm tiêu hoài. Dương trưởng đến bốn nét thời thành quẻ Đại Tráng, âm chỉ còn hai nét mà thôi; dương lại trưởng thêm đến năm nét thành ra quẻ Quải, âm chi một nét mà thôi. Chốc thời Khôn biến cả sáu nét, mà toàn sáu nét hóa ra dương, thành quẻ Bát Thuần Càn. Càn là dương trưởng chi cực, trưởng cực tức phải tiêu, mới có một âm thay vào dưới Càn Sơ thành ra quẻ Cấu, Cấu là nhất âm mới sinh, từ đó sắp đi âm sinh lần lần, dương tiêu lần lần, quẻ Cấu sang quẻ Độn, quẻ Độn sang quẻ Bĩ, đến quẻ Bĩ âm có thể chiếm phần ưu thắng, dương có cơ chịu đường liệt bại, tiêu cứ tiêu lần lần, trưởng cứ trưởng lần lần. Trải qua quẻ Quán, quẻ Bác, thời đến nỗi dương mòn hết, mà tất thảy sáu nét dương biến hết, thành ra Bát Thuần Khôn, lại là âm thịnh chi cực. Nhất tiêu, nhất trưởng, nhất trưởng, nhất tiêu, thử trưởng tắc bỉ tiêu, thử tiêu tắc bỉ trưởng, chính là diệu dụng của tạo hóa, mà cũng là tính lí của Dịch học.
Chúng ta chớ thấy mấy vạch đứt, vạch liền mà xem làm đồ vô dụng. .
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Thái, tiểu vãng đại lai, cát hanh, tắc thị thiên địa giao nhi vạn vật thông dã, thượng hạ giao nhi kì chí đồng dã. Nội dương nhi ngoại âm, nội kiện nhi ngoại thuận, nội quân tử nhi ngoại tiểu nhân, quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu dã.
彖曰: 泰, 小往大來, 吉亨, 則是天地交而萬物通也, 上下交而其志同也. 内陽而外陰, 内健而 外順, 内君子而外小人, 君子道長, 小人道消也.
Soán viết: Thái, tiểu vãng đại lai, cát hanh, tắc thị thiên địa giao nhi vạn vật thông dã, thượng hạ giao nhi kì chí đồng dã.
Xem Soán từ Thái, tiểu vãng đại lai cát hanh, Thế thời trời đất giao với nhau, mà vạn vật được thông vậy. Suy vào việc người, trên dưới giao với nhau, mà chí ý cả hai bên đồng vậy. (Chữ kì là đại danh từ chỉ cả hai bên).
Nội dương nhi ngoại âm, nội kiện nhi ngoại thuận, nội quân tử nhi ngoại tiểu nhân, quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu dã.
Xem thể quẻ ba nét Càn ở trong, ba nét Khôn ở ngoài, thế là khí dương ở trong, khí âm ở ngoài, tính cương kiện ở trong, mà tính nhu thuận ở ngoài, âm, dương là khí của Càn, Khôn, kiện, thuận là đức của Càn, Khôn. Lại theo thể quẻ mà nói về nhân sự, thời ba dương ở Nội Quái tượng là quân tử dụng sự tại nội, ba âm ở Ngoại Quái tượng là tiểu nhân thừa hành tại ngoại, dương càng ngày càng trưởng thêm là đạo quân tử càng ngày càng lớn thêm, âm càng ngày càng tiêu lần là đạo tiểu nhân càng ngày càng suy lần. Có như thế mới thành được Thái.
PHỤ CHÚ: Chữ âm, dương là thuộc về phần khí. Chữ kiện, thuận là thuộc về đức tính. Chữ quân tử, tiểu nhân là thuộc về phần loài người.
Đọc Soán Truyện đến đây, rất quan hệ là câu: Quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu. Theo tâm lí thánh nhân, vẫn trông mong cho người đời rặt là quân tử, nhưng việc ấy không thể nào làm được. Hễ đạo trời đã có dương tất cũng có âm. Vậy nên loài người đã có quân tử tất cũng có tiểu nhân. Chỉ duy quân tử đứng vào địa vị chủ động, thời đạo quân tử được trưởng, tiểu nhân đứng vào địa vị bị động, thời đạo tiểu nhân phải tiêu. Như thế, thời đạo đời được hanh thái.
Quân tử chỉ là người tốt, vì sao lại đặt tên bằng quân tử?
Nguyên thuở xưa đặt danh từ ấy còn chú trọng về luân lí đời xưa. Ra gánh việc quốc gia, thời đúng tư cách một người vì quân, ở trong gia đình thời đúng tư cách một người vì tử. Thế là hạng người làm bậc trên cũng tốt làm việc dưới cũng tốt, góp cả hai nghĩa ấy mà đặt tên nên gọi bằng quân tử, mà cũng là một người đúng tư cách làm người. Nếu gọi bằng thánh nhân cũng có thể được.
Chữ tiểu nhân thời không ý nghĩa gì sâu xa, chỉ là một hạng người âm hiểm ti bỉ chẳng xứng đáng tư cách làm người. Vậy nên gọi bằng tiểu nhân.
Nguyên lai, ý nghĩa chữ nhân lớn lắm. Nhân là phối địch với thiên, địa mà làm tam tài kia mà, nay nó chỉ loài tiểu mà thôi, chẳng xứng đáng được nhân, nên gọi bằng tiểu nhân. Còn như sách vở các chốn khác cũng có lúc nói bằng địa vị mà chia làm quân tử, tiểu nhân, có nghĩa: quân tử là bậc trên, tiểu nhân là bậc dưới, nhưng đó chỉ nghĩa hẹp mà thôi, chẳng phải thật ý nghĩa quân tử, tiểu nhân. Chúng ta đọc sách chớ câu nệ những chữ ấy.
Lại theo miệng thế tục, có một danh từ tiểu nhân là người bé, tương đối với đại nhân là người lớn, trái hẳn với chữ tiểu nhân ở đây.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Thiên địa giao, Thái, hậu dĩ tài thành thiên địa chi đạo, phụ tƣớng thiên địa chi nghi, dĩ tả hữu dân.
象曰: 天地交, 泰, 後以裁成天地之道, 辅相天地之宜, 以左右民.
Thích nghĩa chữ một: Tài nghĩa là xén cắt; thành nghĩa là tròn khéo; phụ tướng nghĩa là giúp đỡ; đạo nghĩa là nguyên tắc; nghi nghĩa là phƣơng pháp; tả hữu nghĩa là bênh vực đề huề.
Bây giờ mới thích toàn văn.
Hình thiên vẫn ở phía trên, bây giờ Càn hạ là thiên khí hạ giao với địa. Hình địa vẫn ở phía dưới, bây giờ Khôn thượng là địa khí thượng giao với thiên. Thiên, địa giao mà âm, dương hòa thời vạn vật sướng đạt cả thảy, ấy là Thái.
Người nguyên thủ ở trong một nước gọi bằng hậu, chính là người có quyền thay gánh của trời đất nên phải thể lòng trời đất sinh thành vạn vật, mà lo bổ cứu những chốn khuyết hãm cho trời đất, tỉ như: Thì trời có nóng lạnh, hình đất có cao thấp, nhưng tựu trung có thái quá, có bất cập, thời thánh nhân nhân đó mà sửa sang, xét cắt, khiến cho đâu đó cũng vuông tròn thành tựu, ấy là tài thành thiên địa chi đạo.
Lại tỉ như: Mùa Xuân phát sinh vạn vật, mùa Thu thành thục vạn vật, thánh nhân cũng nhân thiên thì tự nhiên mà dạy cho người ta mùa Xuân cày, mùa Thu gặt.
Lại tỉ như: Chốn đất cao thích trồng cây, chốn nước sâu tiện thủy lị, thánh nhân nhân địa thế tự nhiên, mà dạy cho ta cách làm rừng, nấu muối, v.v. Những việc ấy là phụ tướng thiên địa chi nghi.
Đạo là nguyên lí tự nhiên; nghi là thuộc về sự lí đương nhiên; thánh nhân hết lòng hết sức xem xét ở hai lẽ ấy mà đưa ra thực hành, cốt cho dân sinh được đầy đủ, dân dụng được tiện lợi, để phù trì cửu hộ dân, ấy là tả hữu dân. Như thế là công việc của thánh nhân làm ra Thái, cũng như thiên, địa giao mà thành đạo Thái.
PHỤ CHÚ: Xem suốt từ Càn, Khôn sắp xuống quẻ Lí, bình quân nét âm nét dương, bên nào cũng ba mươi nét vạch. Thế là âm dương chẳng bên nào quá, chẳng bên nào bất cập, chung sức với nhau mà thành công tạo hóa. Vậy nên được Thái.
Khi đã được Thái rồi, thời chỉ lo cái gì thái quá thời phải hạn chế lại, cái gì bất cập thời phải bổ trợ thêm. Vạn sự các đắc kì trung, vạn vật các đắc kỉ sở, ấy là công hiệu thánh nhân tài thành phụ tướng mà được như thế.
Trái lại, dầu thiên thì làm ích cho người, địa lị làm lợi cho người, mà không phương pháp tài thành phụ tướng khiến cho thỏa thích bình quân, tất nhiên có thái quá, có bất cập, hiện ra vô số tình hình bất bình đẳng ở trong xã hội. Hoặc giàu quá chừng giàu, hoặc đói quá chừng đói, hoặc sướng quá chừng sướng, hoặc khổ quá chừng khổ, hoặc người trên quá chừng áp chế người dưới, hoặc người dưới quá chừng ghen ghét người trên. Tổng chi, vì không cách tài thành phụ tưởng để tả hữu dân mà thôi.
Hai chữ tả, hữu rất có ý vị. Tỉ như: giống gì quá mếch về tả, thời ta sửa lại cho sang hữu chút đỉnh, giống gì quá mếch về hữu thời ta sửa lại cho sang tả chút đỉnh, cốt làm cho ai nấy cũng thỏa thích sở nguyện cho được sở cung vừa cập sở cầu, chính là nghĩa chữ tả, hữu.
Chữ tả, hữu, nếu theo danh từ mà giải thích thời có nghĩa tả là trước, hữu là sau, tả là cao, hữu là thấp. Nhân nhích sắp đặt trước sau cao thấp, khỏi tệ chênh lệch bất bình, tức là tả hữu dân.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1.Sơ Cửu: Bạt mao như, dĩ kì vị, chinh cát. 初九: 拔茅茹, 以其彙, 征吉.
Bạt nghĩa là tút; mao nghĩa là bụi săng; như nghĩa là ngùm rễ, ví nghĩa là bầy loài; chinh nghĩa là tấn lên.
Hào Cửu ở vị Sơ là một hạng người có tài cương minh mà còn ở vị thấp. Vì ở thì Thái, ba hào dương ở Nội Quái chính là một bầy quân tử dắt nhau mà lên. Sơ tuy ở vị thấp, nhưng cặp với hai vị trên đồng thì tịnh tấn. Tượng như tút ngùm rễ săng, vừa tút một cây mà cả ngùm lên hết. Quân tử ở đời Thái, cũng dắt nhau lên như thế, còn có việc gì làm chẳng xong.
Bạt mao như, dĩ kỉ vị là tỉ dụ bằng quân tử tịnh tấn là tạo nhân của thì Thái. Chinh cát, tức là kết quả.
Tượng viết: Bạt mao, chinh cát, chí tại ngoại dã.
象曰: 拔茅, 征吉, 志在外也.
Bạt mao, chinh cát là tam dương đồng chí với nhau, muốn thượng tiến ở Ngoại Quái; là đảng quân tử đồng chí tiến với nhau, muốn ra gánh việc thiên hạ.
Chữ ngoại theo ở mặt quẻ, thời chỉ quẻ trên, theo về ý thánh nhân, thời ngoại là thiên hạ. Xưa nay Thánh hiền quân tử sở dĩ gặp thì câu tiến, dắt nhau kéo lên, há vị nhất thân nhất gia đâu.
Nguyên hoài bão các ngài, nhỏ thời việc nhất quốc, lớn thời việc nhất xã hội; nhỏ thời việc dân, lớn thời việc cả thế giới, hoàn toàn ở ngoài thân gia mình nên nói rằng: Chí tại ngoại.
2. Cửu Nhị: Bao hoang, dụng bằng hà, bất hà duy, bằng vong, đắc thượng vu trung hàng.
九二: 苞荒, 用馮河, 不遐遗, 朋亡, 得尚于中行.
Hào từ này đạo lí rất hoàn toàn, quy mô rất đầy đủ, nhưng vì văn tự quá tinh thâm nên khó giải, xin học giả chịu khó mà nhận cho kĩ.
Bao nghĩa là bọc; hoang nghĩa là uế tạp, cũng có nghĩa là phiền rối; bằng hà nghĩa là mình truồng lội qua sông; hà nghĩa là xa, cũng có nghĩa là sơ viện; bằng nghĩa là phe phái về mình; vương nghĩa là quên hẳn; thượng nghĩa là phối hợp, cũng có nghĩa là vừa đúng; trung, đắc trung; hàng nghĩa là đường đi, dùng vào đây thời hàng là đạo.
Cửu Nhị dương cương đắc trung, vẫn là một bậc quân tử; gặp thì Thái, trên có vị nguyên thủ là Lục Ngũ nhu thuận đắc trung, hạ ứng với Nhị, thượng hạ đồng đức mà suy thành tương tín với nhau. Vì Lục Ngũ nhu thuận, tài vẫn thua Nhị nên phải hết lòng tín nhiệm Nhị, Nhị mới là tay chủ động ở thì Thái.
Sinh gặp hoàn cảnh như thế, lại chung quanh có hai dương đồng chí với mình, dắt nhau ra gánh việc tế thế an bang, trách nhiệm đã quá chừng lớn, tất thủ đoạn phải quá chừng giỏi, mà đạo đức cũng phải quá chừng cao nên công việc tác dụng có bốn câu như dưới này:
Một là kể về độ lượng, hai là kể về khí phách, ba là kể về kế hoạch, bốn là kể về công đức, công tâm. Bốn đức ấy lại phải tất thảy cho đúng với đạo trung.
Nay thích điều thứ nhất:
Bao hoang:
Vì thời đại mới bước qua vào Thái, mầm mới tuy đương lên mà rác cũ vẫn chưa quét sạch. Nếu người độ lượng chật hẹp, e đến nỗi tật ác thái thậm, trừ tệ thái cấp, hay hóa ra dở cũng có lẽ. Vậy nên xử vào thì này, gánh công việc trị Thái, tất phải có độ lượng cho lớn rộng, sẽ bao bọc được những loài uế tạp, khử tiểu nhân, trừ tệ chính làm bằng một cách thung dung. Thế thời dụng nhân mới được đủ tài, mà làm việc mới có thứ tự, ấy là bao hoang.
Thích điều thứ hai:
Dụng bằng hà:
Xưa nay những người độ lượng khoan hồng, thường mắc tệ nhân nhu bất đoán. Huống gì đương thì Thái, phá hoại vừa xong, bắt đầu kiến thiết. Nhũng việc đỉnh tân cách cố, nhiều hạng người thủ thường tuần cựu, sinh ra tệ du dự nhân tuần, tất phải dùng bằng một cách cương đoán, đủ cả gan mạo hiểm, rán hết sức tấn thủ. Ngộ việc đáng quyết thời quyết ngay, tượng như người có gan liều, truồng mình qua sông mà chẳng khiếp sợ, nên nói rằng: Dụng bằng hà. Câu ấy là mượn cách thí dụ để hình dung tài cương quả, chứ chẳng phải như câu: Bạo hổ bằng hà 暴虎馮河 ở trong sách Luận Ngữ.
Thích điều thứ ba:
Bất hà duy:
Tùng lai, những người có độ lượng khoan hồng, thường hay tính việc lớn mà quên việc nhỏ, có khí phách cương quả, thường nóng nảy mà chẳng kịp tinh tường. Muốn tránh khỏi những tệ bệnh ấy tất phải mưu lự cho cẩn mật, kế hoạch cho tinh tường. Dầu những việc xa khơi nhỏ mọn mà cũng chẳng bao giờ để sót thiếu, ấy là: Bất hà duy.
Đức Khổng có câu: Nhàn vô viễn lự tất hữu cận ưu, nghĩa là người không tính nghĩ điều xa, tất có điều nguy hiểm gần.
Ông Tôn Chân Nhân có câu: Đởm dục đại, nhi tâm dục tiểu, nghĩa là gan làm.việc muốn cho lớn, mà lòng nghĩ việc muốn cho nhặt.
Trên đây nói dụng bằng hà là đởm đại; bất hà duy là tâm tiểu viễn lự.
Thích điều thứ tư:
Bằng vong: Công việc xử Thái như ba câu trên, nhưng còn lo sợ vì họa bằng đảng, bởi vì ở thì Thái, đảng quân tử tuy vẫn nhiều, nhưng đạo trì Thái, tất phải đại công vô tư. Hễ người nào có điều tốt thời ta dùng, người nào có điều xấu thời ta bỏ, cứ một lối công bình chính trực, mà ứng phó với người đời, quên hẳn cả phe phái với mình, mà chẳng tí gì thiên tư thiên vị, ấy là bằng vong.
Đức Khổng có câu: Quân tử chu nhi bất tỉ 君子周而不比, nghĩa là: đạo quân tử rộng lớn công bình mà chẳng thiên tư.
Lại có câu: Quần nhi bất đảng 群而不黨, nghĩa là kết chúng làm bầy mà chẳng phe riêng với ai; bất tị bất đảng chính là nghĩa chữ bằng vương.
Nay lại thích câu kết thúc: Đắc thượng vu trung hàng: Gánh trách nhiệm trì Thái mà đã đủ được bốn điều như trên, văn đã hoàn toàn thiện mỹ, nhưng thánh nhân còn lấy làm lo là vì sự lí trong thiên hạ, quý nhất là đúng chữ trung.
Nếu bao hoang mà thái quá, thường đến nỗi phù phiếm hỗn tạp. Dụng bằng hà mà thái quá, thường đến nỗi táo cấp vọng động. Bất hà duy mà thái quá, thường đến nỗi tẳn mẳn rù rờ. Bằng vương mà thái quá, thường đến nỗi thất quần cô lập.
Thánh nhân mới đinh ninh dặn rằng: Bao hoang mà chẳng phải không kén chọn; dụng hằng hà mà chẳng phải không kĩ lưỡng; bất hà duy mà vẫn chẳng làm những việc vu khoát; bằng vương mà vẫn cũng thân người hiền, viễn người gian. Như thế mới thích hợp ở đạo trung.
PHỤ CHÚ: Cửu Nhị với Lục Ngũ, trung đức tương tế, tâm chí đã đồng, mà cảnh ngộ lại thuận làm nên việc Thái, chắc chẳng khó gì, nhưng mà Hào từ lại phản phúc đinh ninh đến như thế. Bởi vì họa thường nấp ở khi phúc, loạn thường sinh ở khi trị, nên lúc bước lên vũ dài kinh dinh việc xử Thái, tất phải người đủ đức, đủ tài như thế mới xong. Nếu chẳng thế, thời giữa phúc mà họa xảy ra, giữa trị mà loạn sinh ra, cũng là lẽ thường.
Tượng viết: Bao hoang, đắc thượng vu trung hàng, dĩ quang đại dã.
象曰: 苞荒, 得尚于中行, 以光大也.
Tượng Truyện trích cử một câu đầu, một câu cuối của Hào từ, mà thích góp cả toàn văn nói rằng: Cửu Nhị sở dĩ được thế là vì có đạo quang minh viễn đại, mới làm nên được sự nghiệp Thái vậy. Nêu những hạng người ám muội hiệp tiểu, thời chẳng làm gì nên Thái.
3. Cửu Tam: Vô bình bất bí, vô vãng bất phục, gian trinh vô cựu, vật tuất, kì phu, vu thực hữu phúc.
九三: 無平不陂, 無往不得, 艱貞無咎, 勿恤, 其孚, 于食有福.
Hào từ hào này cũng một lẽ biến hóa ở trong Kinh Dịch. Hào Cửu, vị Tam chính là trùng cương bất trung. Theo như quẻ khác thường chẳng được tốt; duy Cửu Tam ở đoạn giữa thì Thái, lại ở trên hai hào dương, chính là một bậc đàn anh ở trong quân tử, vẫn chẳng phải lo có tội lỗi, nhưng theo về cảnh ngộ Cửu Tam, thời vừa cuối cùng Nội Quái, mà bước lên Ngoại Quái, Thái vận đã gần quá nửa rồi, thịnh sắp cực mà e có khi suy, tấn đã cao mà e có lúc vấp.
Vậy nên thánh nhân có lời răn rằng: Đường đời dặc dặc không lẽ bằng mãi mà chẳng nghiêng, vận nước dào dào không lẽ lên hoài mà chẳng sụt, gẫm suốt cả thiên thì, nhân sự, chắc gì thái thịnh hoài mà chẳng suy vong. Vậy nên xử vào địa vị Cửu Tam, thường phải đổ lòng vào cảnh gian nan, đặt thân vào vị trinh chính, thời không tội lỗi. Những lời trên đây là thánh nhân răn cho Cửu Tam. Tuy nhiên, địa vị Cửu Tam chính vừa khi Thái đương thịnh, miễn biết hết sức gian trinh, thời làm gì đến nỗi có ưu hoạn.
Tuất, cũng như chữ ưu hoạn. Vật tuất nghĩa là không việc gì phải ưu hoạn, chẳng những vật tuất, mà chắc chắn lại được hưởng hạnh phúc nữa kia.
PHỤ CHÚ: Âm, dương, tiêu, trưởng tranh nhau, Bĩ, Thái tuần hoàn nối nhau. Vậy nên bình tất có bí, vãng tất có phục, đó là thiên vận tự nhiên.
Chúng ta đem thân gánh việc đời, tất phải lấy nhân sự đương nhiên mà chống với thiên vận tự nhiên. Vậy có câu: Tinh thần di tạo hóa. Lại có câu: Anh hùng tạo thời thế. Chính là lo làm sao cho bình bất bí, vãng bất phục, nhưng muốn khiến cho bất bí, tất phải tính trước ở khi còn bình; muốn khiến cho bất phục, tất phải ngăn trước ở khi còn vãng. Vậy nên đến Cửu Tam mới được nửa Thái, mà thánh nhân đã vội răn hai chữ gian trinh, chính là muốn lấy sức người giằng giữ thiên vận vậy. Sách xưa có câu: Nhân định giả, năng thắng thiên 人定者能勝天. Định nghĩa là chuyên nhất vững vàng.
Tượng viết: Vô vãng bất phục, thiên địa tế dã. 象曰: 無往不復, 天地際也.
Hào từ Cửu Tam sở dĩ nói rằng: Vô vãng bất phục là đương lúc nửa Thái, hết Nội Càn sang Ngoại Khôn, vừa đúng trung gian trời đất giao nhau vậy. Nguyên lai dương giáng, âm thăng mới thành ra Thái, nhưng theo lẽ tuần hoàn của tạo hóa, có thế mãi đâu, dương giáng xuống dưới, chẳng bao lâu tất phục lại ở trên; âm thăng lên trên, chẳng bao lâu tất phục lại xuống dưới; chắc có một ngày dương thăng, âm giáng, Càn thượng, Khôn hạ, tức là Bĩ tới ngay. Chữ thiên địa này nói về khí âm dương, chẳng phải nói về hình trời đất.
4. Lục Tứ: Phiên phiên, bất phú dĩ kì lân, bất giới dĩ phu.
六四: 翻翻, 不富以其鄰, 不戒以孚.
Hào này ở dưới hết Thượng Quái là đã quá nửa thì Thái. Thể hào đã âm nhu, lại ở vị âm là có tính chất âm hiểm. Trên Tứ lại có hai âm cũng đồng đảng với Tứ.
Bọn họ vì ở thì Thái nên phải nhượng bộ cho quân tử mà ra ở ngoài, nhưng tiểu nhân có bao giờ chịu an phận đâu. Bây giờ họ nghe Thái đã quả nửa, họ mới thừa cơ rủ rập nhau vào trong mà lấn phường quân tử. Phiên phiên nghĩa là kết bầy bay mau. Kể theo bản thân họ vẫn tài hèn sức yếu, chẳng lấy gì làm phú, nhưng vì họ thân cận đồng loại với nhau, tượng như một đám người thành ra một xóm, mà tất thảy là hạng bất phú.
Tấm lòng liên tà hại chính, anh nào cũng như anh nấy nên họ chẳng chờ ƣớc hẹn mà đã tin nhau rồi.
PHỤ CHÚ: Hào từ Cửu Tam là răn cho quân tử; Hào từ Lục Tứ là gớm cho tiểu nhân, chữ phú ở đây như chữ phú ở hào Ngũ quẻ Tiểu Súc, nghĩa là đầy đủ, hào dương rằng phú, hào âm rằng bất phú.
Tượng viết: Phiên phiên bất phú, giai thất thực dã, bất giới dĩ phu, trung tâm nguyện dã. 象曰: 翻翻不富, 皆失實也, 不戒以孚, 中心願也.
Hào từ nói rằng: Phiên phiên bất phú là phe tam âm đó, rặt là mất đức thành thực vậy. Bất giới dĩ phu là vì trong lòng họ đã muốn sẵn vậy,
Thông lệ trong Dịch, dương là phú là thực. Ba hào âm thảy bất phú, lại thất thực. Chữ giai là nói luôn cả ba hào âm.
5. Lục Ngũ: Đế Ất quy muội, dĩ chỉ, nguyên cát.
六五: 帝乙歸妹, 以祉, 元吉.
Hào Lục là âm nhu, xử vị Ngũ là vị chí tôn, vị Ngũ là đắc trung, âm nhu đắc trung, lại ở vào thì Thái, phía dưới có bậc hiền thần cương minh như Cửu Nhị chính ứng với Ngũ. Lục Ngũ lấy đức nhu trung hạ ứng với Cửu Nhị cương trung, hết lòng tín nhiệm Cửu Nhị, quên hết thể vị tôn quý của mình, tượng như bà công chúa, em gái vua Đế Ất, mà hạ giá với bình dân là một cách khuất kỉ hạ hiền, tất được kết quả rất tốt. Đã được hưởng phúc chỉ, mà lại tốt lành lớn hung.
Đế Ất là hiệu vua đời nhà Thương; quy: gả; muội: em gái; chỉ: phúc.
PHỤ CHÚ: Hào từ này là mượn một việc em gái nhà vua gả xuống làm vợ bình dân, để hình dung thành tâm Lục Ngũ xuống theo Cửu Nhị. Xin học giả chớ nhận lầm sự thực. Bởi vì cứ theo hào Tượng thời một hào âm thuận tòng với hào dương cũng như người gái thuận tòng với người trai. Duy Lục Ngũ là vị chí tôn nên thủ tượng bằng bà công chúa, không câu nệ bằng sự thực.
Tượng viết: Dĩ chỉ, nguyên cát, trung dĩ hành nguyện dã.
象曰: 以祉, 元吉, 中以行願也.
Hào từ Lục Ngũ sở dĩ được dĩ chỉ nguyên cát là vì nhu trung như Lục Ngũ gặp được cương trung như Cửu Nhị, hai bên thảy hợp theo chí nguyện nhau mà làm, chẳng bên nào xuất ở miễn cưỡng.
PHỤ CHÚ: Đọc Hào từ Lục Ngũ này nên nhắc lại câu dĩ quý hạ tiện ở quẻ Truân. Truân Sơ lấy mình là dương mà hạ khuất với âm; Thái Ngũ lấy mình là âm, mà hạ khuất với dương, hai bên thảy lấy mình tôn quý mà chịu khuất với người ti tiện, vui phần đạo đức mà quên phần thế vị, nên một bên thời tế được Truân, một bên thời thành được Thái, cảnh ngộ tuy bất đồng, mà thủ đoạn thời in nhau, mới biết "nhân lực hồi thiên" chẳng phải lời nói không.
6. Thượng Lục: Thành phục vu hoàng vật dụng sư, tự ấp cáo mệnh, trinh, lẫn. 上六: 城復于隍, 勿用師, 自邑告命, 貞吝.
Hào từ này cũng tượng như hào Thượng quẻ Lí, quẻ Tiểu Súc. Chẳng lấy nghĩa bằng hào, mà lấy nghĩa bằng toàn Quái. Quẻ Thái đến hào Thượng là Thái chi chung; Thái đã đến cùng, tất nhiên Bĩ tới, huống gì Thượng Lục lại là âm nhu làm đầu bầy trong bọn tiểu nhân, chính là một tay đánh đổ Thái. Thánh nhân xem đến đó mà đau đớn cho vận đời nên có câu; Thành phục vu hoàng.
Vận đời thịnh cực mà suy, tượng như thành cao khi đã đổ trúc, lại thành ra đất khối.
Hoàng: đất khối để đắp nên thành; chữ thành tỉ như Thái, chữ hoàng tỉ như Bĩ.
Cuộc đời đã đến lúc Thái quay lại Bĩ; tất nhiên chúng phản, thân li, thượng hạ hoán tán, còn gì mà dùng được việc quân nữa (Sư: quần chúng).
Lúc bấy giờ, nếu có xuất phát được mệnh lệnh, cũng chi ở nơi chòm xóm mình thôi là may. Tổng chi, vận trời đã hết sức, người khó giằng, dầu mình hành động vẫn chính, mà kết quả chỉ là thất bại, tới bây giờ mới toan vãn hồi cũng chẳng khỏi tủi hổ.
Tượng viết: Thành phục vu hoàng, kì mệnh loạn dã.
象曰: 城復于隍, 其命亂也.
Chữ mệnh ở đây theo chữ mệnh ở trên Hào từ mà nói xuống.
Thành phục vu hoàng là nói Thái cực mà Bĩ tới nơi, dầu có cáo mệnh cũng chỉ loạn mà thôi.
Thánh nhân nói câu ấy là trông mong cho người dự phòng ở trước lúc chưa loạn. Nếu đã loạn tới, chẳng tài gì văn hồi được nữa.
PHỤ CHÚ: Chúng ta đọc Dịch từ lúc có Càn, Khôn, trải qua trung gian, nào Truân mà kinh luân; nào Mông mà giáo dục, nào Nhu mà sinh tụ, nào Tụng, nào Sư mà sắp đặt việc hình việc binh, nào Súc, nào Lí mà chỉnh đốn việc kinh tế, việc lễ chế, hao tổn biết bao nhiêu tâm huyết, chứa trữ biết bao nhiêu thì giờ. Kể về phần Khảm hiểm, trải qua đến sáu lần:
1. Truân, Khảm thượng
2. Mông, Khảm hạ
3. Nhu, Khảm thượng
4. Tụng, Khảm hạ
5. Sư, Khảm hạ
6. Tỉ, Khảm thượng
Thoát khỏi sáu lần nguy hiểm, sau trong có chốn nuôi, trữ là Tiểu Súc, ngoài có chốn bằng tạ là Lí. Bấy giờ mới làm nên Thái.
Thái vừa đến cuối cùng tức khắc ra Bĩ. Ghê gớm thiệt! Làm nên tốn vô số công phu, mà làm hư chỉ trong chốc lát, vun đắp biết bao nền tảng, mà đánh đổ chỉ trong nháy mắt.
Chúng ta đọc Dịch, thử xem từ Càn, Khôn trải qua tám quẻ mới đến Thái. Vừa Thái xong, tức khắc tới Bĩ. Than ôi!
Thành sao khó thế, bại sao dễ rư? Phúc sao chậm thế, họa sao chóng rư? Những người có trách nhiệm với quốc gia xã hội, há chẳng nên lưu tâm vào chốn ấy hay sao? Xin ai đọc Dịch, nghiên tinh đàn tứ 研精殫思 những chốn vi diệu của vũ trụ luân chuyển mà tự giác.
12. QUẺ THIÊN ĐỊA BĨ
Kiền trên; Khôn dưới
Quẻ này là quẻ Thiên Địa Bĩ.
Khôn dưới cũng là Nội Khôn. Càn trên cùng là Ngoại Càn. Càn là Thiên, Khôn là Địa nên tên quẻ đọc bằng Thiên Địa Bĩ.
TỰ QUÁI
Tự quái: Thái giả thông dã, vật bất khả dĩ chung thông, cố thụ chi dĩ Bĩ.
序卦: 泰者通也, 物不可以终通, 故受之以否.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Thái tiếp lấy quẻ Bĩ là vì cớ sao?
Thái nghĩa là thông, Bĩ nghĩa là lấp, cũng có nghĩa là cùng.
Nguyên đạo lí trong vũ trụ, chỉ có lẽ tương đối, mà không lẽ gì tuyệt đối.
Thông với lấp tương đối, mà thông với cùng cũng tương đối. Hễ sau lúc đã Thái thông rồi, tất nhiên lấp với cùng tới. Vậy nên sau quẻ Thái, tiếp lấy quẻ Bĩ.
PHỤ CHÚ: Xem hai quẻ Thái với Bĩ liền nhau, mà bao quát đƣợc vô số đạo lí ở trong vũ trụ. Tỉ như: Quân chúa thịnh cực, tất có ngày quân chúa đổ, quân chúa đổ thời bình dân lên; tư bản thịnh cực, tất có ngày tư bản đổ, tư bản đổ thời lao động lên; chẳng bao giờ mà Thái mãi, cũng chẳng bao giờ mà Bĩ hoài, chỉ duy vãng phục tuần hoàn là lẽ tất nhiên. Người ta chớ lấy mắt xem gần, thấy thịnh cực mà vui mừng, thấy suy cực mà chán nản.
Nếu vũ trụ gian chỉ có một lối tuyệt đối, thời duy bao giờ trái đất không xoay, nhật luân không chuyển, mới họa có thế chăng.
Bĩ chi phỉ nhân, bất lị quân tử trinh, đại vãng tiểu lai.
否之匪人, 不利君子貞, 大往小來.
Bĩ chi phỉ nhân.
Phỉ như nghĩa chữ phi; Nhân nghĩa là đạo người.
Ở trong trời đất vẫn đủ cả vạn vật, nhưng ở trong vạn vật, thời người là một giống tối linh. Vậy nên chỉ nói người, thời đại biểu được cả vạn vật. Người thiệt là phối với trời đất mà làm tam tài nên đạo người tức là đạo trời đất, mà đạo trời đất chính gởi vào đạo người.
Đạo trời là gì? Là khí dương. Đạo đất là gì? Là khí âm.
Âm dương hòa hiệp với nhau, thời sinh thành được vạn vật, mà đạo người cũng nhân đó mà còn. Âm dương cách tuyệt với nhau thời chẳng sinh thành được vạn vật, mà đạo người cũng nhân đó mà mất.
Thì Bĩ này âm khí ở dưới, chẳng chịu thượng giao với dương, dương khí ở trên, chẳng chịu hạ tiếp với âm. Âm, dương cách tuyệt nhau như thế, tất nhiên vạn vật chẳng sinh thành, còn gì là đạo người nữa, nên nói rằng: Bĩ chi phỉ nhân. Phỉ nhân nghĩa là chẳng phải đạo người.
PHỤ CHÚ: Lời phỉ nhân ở Soán từ, tuy chuyên chỉ về âm dương bất giao, thuộc về phần thiên địa, nhưng lấy đạo lí ấy mà suy vào nhân sự, tỉ như, trong thân một người, dương nhiệt thượng xung, âm hàn hạ trệ, tất thành ra bệnh quan cách bất thông.
Tâm thuật một người, phấn sức thiên lí ở bề ngoài, chất chứa nhân dục ở bề trong, thời chẳng khác gì cầm thú, thảy là phỉ nhân. Thân thể đã bĩ tất nhiên thân tử, tâm thuật đã bĩ, tất nhiên tâm tử, chẳng phải vô nhân đạo hay sao?
Bất lị quân tử, trinh, đại vãng tiểu lai.
Ở thì Bĩ này, chính là âm tà đắc chí, tiểu nhân hoành hành, rất chẳng lị với đạo chính của quân tử. Vì cớ sao quân tử trinh lại bất lị? Vì thì Bĩ này trái với thì Thái. Thì Thái tiểu vãng, đại lai, mà thì Bĩ đại vãng, tiểu lai. Đại vãng là dương cương qua ra ở ngoài; tiểu lai là âm nhu lại vào ở trong là tượng quân tử thất vị tại ngoại, tiểu nhân đắc thế tại nội. Vậy nên, đạo trinh chính của quân tử, gặp hồi này chỉ nên tiềm tàng thối ẩn, chẳng làm gì thuận lị được.
Xem lời Soán Truyện dưới này càng rõ lắm.
Soán viết: Bĩ chi phỉ nhân, bất lị quân tử trinh, đại vãng tiểu lai, tắc thị thiên địa bất giao, nhi vạn vật bất thông dã; thượng hạ bất giao, nhi thiên hạ vô bang dã. Nội âm nhi ngoại dương, nội nhu nhi ngoại cương, nội tiểu nhân nhi ngoại quân tử, tiểu nhân đạo trưởng, quân tử đạo tiêu dã.
彖曰: 否之匪人, 不利君子貞, 大往小來, 則是天地不交而萬物不通也; 上下不交而天下無邦 也. 内陰而外陽, 内柔而外剛, 內小人而外君子, 小人道長, 君子道消也.
Xem suốt ba câu Soán từ quẻ Bĩ thời:
Soán viết: Bĩ chi phỉ nhân, bất lị quân tử trinh, đại vãng tiểu lai.
Càn ở trên, Khôn ở dưới, âm dương hai khí chẳng giao tiếp với nhau là thiên địa bất giao mà vạn vật không thể sinh thành được.
Càn là phía trên, Khôn là phía dưới, trên áp chế dưới, dưới cách tuyệt trên là thượng hạ bất giao, mà thiên hạ không chốn nào thành bang quốc được.
Chữ thiên hạ vô bang, há phải thiệt vô bang đâu! Chính chẳng ra chính, giáo chẳng ra giáo, trên chẳng thương dưới, dưới chẳng phục trên, tuy hữu bang mà cũng in như vô bang vậy.
Hai câu ấy chỉ là nói nhân sự hoại loạn đạt ư cực điểm. Vậy nên Soán từ đã nói: Bĩ chi phỉ nhân, lại nói: Bất lị quân tử trinh.
Soán từ ở trong toàn Kinh, duy quẻ này là xấu hơn hết. Bởi vì theo như tượng quẻ, nói về thể quẻ, thời ba âm ở trong, mà ba dương ở ngoài. Nói về đức tính quẻ, thời âm nhu ở trong, mà dương cương ở ngoài. Nói về thế đạo, thời tiểu nhân đắc thế ở trong, mà quân tử thất thế ở ngoài, đạo tiểu nhân thời ngày càng trưởng thêm mà đạo quân tử thời ngày càng mòn thêm. Thế là thiên đạo bĩ, thời nhân sự cũng bĩ luôn.
PHỤ CHÚ: Chúng ta đọc Soán từ quẻ Thái, quẻ Bĩ, thấy được thiên đạo Thái thời nhân sự cũng theo mà Thái luôn. Thiên đạo Bĩ thời nhân sự cũng theo Bĩ nốt. Thế thời chúng ta làm người ở một đời, toan ra gánh việc của một đời, chỉ phải nhường quyền cho thiên đạo mà thôi rư? Không, không.
Nguyên lai âm với dương, quân tử với tiểu nhân, vẫn thường thường có luôn ở giữa vũ trụ, chỉ tranh nhau cái cơ quan tiêu, trưởng mà thôi. Chẳng qua âm tiêu, dương trưởng thời Thái; âm trưởng, dương tiêu thời Bĩ; quân tử trưởng, tiểu nhân tiêu thời Thái; tiểu nhân trưởng, quân tử tiêu thời Bĩ. Chính giữa lúc Đông hàn mà vẫn có dương, vì thế mà Đông qua thời có Xuân lại.
Chính giữa lúc đời loạn, mà vẫn có quân tử, vì thế mà loạn cực thời trị sinh.
Xét cho đến nguyên nhân, thời rất quan hệ là cơ tiêu, trưởng, nhưng cái tiêu đó có phải bỗng chốc mà tiêu ngay đâu, cái trưởng đó có phải bỗng chốc mà trưởng ngay đâu.
Nhất dương sinh từ quẻ Phục, đến trưởng chi cực, mới thành ra quẻ Càn; nhất âm sinh từ quẻ Cấu[12], đến trưởng chi cực mới thành ra quẻ Khôn, tuần hoàn tích lũy, há phải một mai một hôm mà nên rư? Thiên đạo như thế, nhân sự cũng như thế, tiêu chẳng phải tiêu ở khi tiêu, mà chính măng mậm tiêu ở khi đương trưởng; trưởng chẳng phải trưởng ở khi trưởng, mà chính cội gốc trưởng ở khi đương tiêu. Một giọt không ngăn, thời trích trích chảy hoài có thể thành ra sông bể. Một cây không đốn, thời ầm ầm nứt mãi có thể thành ra rừng rậm.
Chúng ta nếu để mắt vào một giọt, một cây, mà phòng bị phần trưởng của tiểu nhân, vừa bổ cứu phần tiêu cho quân tử. Thế đạo làm gì Bĩ mà chẳng Thái. Đó chính là lấy nhân sự mà vãn hồi thiên đạo.
Xin xem cả Hào từ hai quẻ thời rõ lắm.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Thiên địa bất giao, Bĩ. Quân tử dĩ kiệm đức tị nạn, bất khả vinh dĩ lộc. 象曰: 天地不交, 否. 君子以儉德辟難, 不可榮與祿.
Thì Bĩ là đương lúc thiên địa bất giao. Thiên đạo đã lù mù, nhân sự cũng bế tắc, quân tử xử thì ấy, thời nên thế nào? Gặp thì đường đời rắc rối, tính người hiểm sâu, đã không thể tranh thắng với bọn tiểu nhân thời càng chẳng nên hi sinh thân danh vì lợi lộc. Chỉ duy lo dè đặt đức mình, để tránh khỏi họa vì tiểu nhân mà mắc lấy nạn, mà lại nhất thiết những lộc vị của người cho mình, tuyệt đổi chẳng thèm.
Kiệm đức nghĩa là thao quang hối tích, chẳng lòe loẹt đức của mình cho người thấy. Bất khả vinh dĩ lộc nghĩa là: dầu đem lộc vị cho mình mà mình chẳng kể nó là vinh.
Ở trên Văn Ngôn quẻ Khôn có câu: Thiên địa bế, hiền nhân ẩn. Chỉ một chữ ẩn vừa đủ thích Tượng Truyện đây.
PHỤ CHÚ:
Quẻ Truân, quẻ Bĩ thảy là thế đạo đương hồi khốn nạn, nhưng Tượng từ quẻ Truân thời bảo rằng: Quân tử dĩ kinh luân, Tượng từ quẻ Bĩ thời lại bảo rằng: Quân tử dĩ kiệm đức tị nạn. Thế chẳng mâu thuẫn lắm hay sao?
Không phải, Truân là đương lúc hoạn nạn mới manh nha, thời cứu cấp phù nguy là trách nhiệm của quân tử. Đến như Bĩ là họa hoạn đã thập phần đáo để, nếu không thời thế cơ hội thời chẳng nên làm việc gì. Xử thì ấy, chỉ duy ẩn thân đãi thì là minh triết của quân tử. Hai Tượng từ tuy khác nhau, mà đạo lí vẫn thông dụng với nhau.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Lục: Bạt mao như, dĩ kì vị, trinh, cát hanh.
初六: 拔茅茹, 以其彙, 貞吉, 亨.
Sơ Lục bắt đầu bước vào thì Bĩ, chính là thì làm lị cho bọn tiểu nhân, mà Sơ Lục này chất Lục là âm nhu, vẫn là đồng đảng với hai hào trên. Nếu Sơ dắt đoàn kéo lũ liên lạc với hai hào trên mà đồng thì tịnh tấn làm công việc đánh đổ Thái, thời thế đạo chắc bị nguy.
Thánh nhân đau lòng cho thế đạo nên trông mong bọn họ hóa ra quân tử. Vả lại Sơ Lục còn ở đầu quẻ, tượng là một người mới bắt đầu ra đời, còn mong cảm hóa được. Thánh nhân mới có lời khuyên dỗ rằng: Thời đại này chính là cơ hội các anh dắt nhau lên, nhưng trông mong cho các anh thương tiếc lấy đồng bào, giữ gìn lấy phúc sau, bỏ hết tà tâm mà giữ lấy chính đạo, dắt nhau đi vào đường chính. Thế thời tiền đồ của các anh chắc được cát mà hanh.
Nếu các anh không trinh thời chưa chắc đã khỏi mắc lấy hung họa. Câu: Bạt mao như, dĩ kì vị, cũng như Hào từ Sơ Cửu quẻ Thái, mà ý thời khác nhau xa. Thái là thì quân tử tịnh tấn, mà Bĩ thời chính là thì tiểu nhân tịnh tấn.
PHỤ CHÚ: Chữ trinh ở hào Sơ với chữ trinh ở Soán từ nguyên chỉ một chữ, nhƣng Soán từ thời đạo chính thuộc về phe quân tử nên nói rằng: Quân tử trinh. Hào Sơ là thánh nhân lấy lẽ chính khuyên miễn cho tiểu nhân nên nói rằng: Nếu trinh thời cát hanh là trông mong cho tiểu nhân hóa ra quân tử.
Tượng viết: Bạt mao, trinh cát, chí tại quân dã.
象曰: 拔茅貞吉, 志在君也.
Nguyên lai, Sơ Lục là hào âm vẫn là tiểu nhân, mà thượng ứng với Cửu Tứ là hào dương. Dương là quân tử, Sơ ứng với Tứ là người dưới ứng với người trên, thế là Cửu Tứ làm chủ nhân, mà Sơ Lục làm tôi tớ. Nếu tôi tớ trung thành với chủ nhân, thời tất nhiên chủ nhân khỏi bị họa, nên Tượng Truyện khuyên cho Sơ rằng: Bạt mao trinh cát, nghĩa là cốt trông cho tâm chí anh lo trung thành với chủ nhân anh vậy (Quân: chủ nhân, tức là Cửu Tứ. Tứ là loài quân tử nên khuyên rằng: Chí tại quân).
2. Lục Nhị: Bao thửa, tiểu nhân cát, đai nhân bĩ hanh.
六二: 包承, 小人吉, 大人否 亨.
Lục Nhị cũng là tiểu nhân trong thì Bĩ, nhưng vì bản thân Nhị hào Lục, vị Nhị là cư trung đắc chính, một tay hào kiệt trong phường tiểu nhân. Bổn đảng nó tuy là tiểu nhân mà bản thân nó lại chẳng muốn làm mất lòng quân tử, nó cũng phấn sức ra cách đạo đức, khéo bao bọc thừa thuận lấy ba dương trên. Tiểu nhân mà biết như Lục Nhị thời lị đã được mà danh cũng chẳng mất. Tiểu nhân cát nghĩa là cách tốt lành thuộc về tiểu nhân.
Tuy nhiên, quân tử với tiểu nhân vẫn bất đồng đạo, tuy tiểu nhân có bao thừa quân tử đi nữa, cũng chẳng qua mua danh chuộc tiếng mà thôi, có lẽ nào quân tử chịu thất thân với nó đâu. Nếu quân tử mà bất tự trọng, cam dựa vào nó để được an thân, thời còn gì là tốt nữa đâu, nên Hào từ lại có câu rằng: Đại nhân bĩ hanh.
Đại nhân: người có đạo đức lớn. Bĩ hanh: an giữ lấy cùng khốn, thời thân mình tuy Bĩ, mà đạo mình được hanh. Câu Hào từ này cũng như câu: Quân tử cố cùng 君子固窮 ở sách Luận Ngữ, có nghĩa là quân tử vẫn giữ lấy cùng, mới là quân tử.
Tượng viết: Đại nhân bĩ hanh, bất loạn quần dã.
象曰: 大人否亨, 不亂羣也.
Bĩ vẫn một cảnh ngộ rất khốn nạn, vì cớ sao lại nói rằng: Bĩ mà hanh.
Bởi vì quân tử ở thì Bĩ, thế lực mình đã chẳng đủ tranh với tiểu nhân, mà đạo mình lại trái với tiểu nhân. Nếu mình hỗn tạp với bầy tiểu nhân, thời đạo của mình hỏng trớt, thân còn mà đạo mất, quân tử có chịu làm đâu; âu là độc lập bất tiến, chẳng chịu tạp loạn với bầy tiểu nhân, thế thời thân tuy cùng, mà đạo vẫn hanh thông vậy.
PHỤ CHÚ: Chữ đại nhân là thay chữ quân tử ở trên Soán từ, rất có ý nghĩa, ở trên là nói bằng cách phổ thông, ở đây là nói cách đặc biệt.
Vì muốn cho quân tử được hoàn toàn làm quân tử nên dùng chữ đại nhân mà phản đối chữ tiểu nhân, bảo có được như thế thời đạo mình mới lớn. Chữ đại đây chẳng phải nói đại bằng thế lực mà đại bằng đạo đức.
3. Lục Tam: Bao tu. 六三: 包羞.
Hào Lục vị Tam âm nhu bất trung, bất chính, ở về thì Bĩ, lại là tiểu nhân chi cực, lại ở trên hai hào âm, chính là người đầu bầy trong đám tiểu nhân. Theo về cách hành động của Tam thời biết được tâm chí của Tam, chắc trong lòng nó chất chứa một khối âm hiểm gian tà, mưu hại quân tử, thiệt đáng xấu hổ mà thôi.
PHỤ CHÚ: Đọc Hào từ Hạ Quái quẻ Bĩ, biết được tâm lí thánh nhân vẫn ghét tiểu nhân nhưng chẳng bao giờ tuyệt tiểu nhân. Hào Sơ là tiểu nhân mới ra đời, còn trông mong cho nó hóa ra quân tử nên khuyên rằng: Trinh cát, hanh. Đến hào Nhị thời trông cho nó bao thừa quân tử mà nói: Tiểu nhân cát. Đến hào Tam thời tiểu nhân đã đạt đến cực điểm nên Hào từ chỉ có hai chữ bao tu. Ngó như hình đau chi cực, ghét chi cực, mà chẳng muốn nói nhiều, nhưng ở trong thì ấy, thánh nhân rất lo quân tử bị sụp nên Soán từ nói rằng: Bất lị quân tử trinh, mà Hào từ Lục Nhị lại có câu: Đại nhân, bĩ hanh. Tiên hiền có câu nói rằng: Dịch vị quân tử mưu, bất vị tiểu nhân mưu 易爲君子謀, 不爲小人謀, nghĩa là Kinh Dịch chỉ tính toan cho quân tử, chẳng phải vì tiểu nhân mà tính toan.
Tượng viết: Bao tu, vị bất đáng dã. 象曰: 包羞, 位不當也.
Lục Tam sở dĩ đến nỗi bao tu là vì hoàn cảnh của Tam đương buổi tiểu nhân đạo trưởng, mà địa vị của Tam lại bất trung, bất chính, mới đến nỗi khả ố như thế.
PHỤ CHÚ: Chữ vị đây có ý nghĩa hơn mọi nơi. Nguyên tâm lí của người ta lúc đầu, thời ai cũng muốn làm quân tử; phần nhiều vì hoàn cảnh xô đẩy nên những hạng người chí khí bạc nhược chẳng bao lâu thời biến ra tiểu nhân.
Ở về thì Bĩ, mà lại xử vào địa vị Lục Tam, kết quả chỉ là bao tu, cũng vì vị mà xui nên như thế.
4. Cửu Tứ: Hữu mệnh, vô cựu, trù li chỉ. 九四: 有命無咎, 疇難祉.
Mệnh: mệnh trời, tượng như thì vận, cũng có nghĩa là số tự nhiên; trù: loài bạn; li: nương nhờ; chỉ: phúc.
Theo về thể toàn quẻ, thời nội Tam âm là tiểu nhân, ngoại Tứ[13] dƣơng là quân tử. Cửu Tứ có đức dương cương ở vào thể Càn kiện, vẫn là một bậc quân tử, lại vừa lúc vận Bĩ đã quá nửa ở vị Tứ, chính là một cơ hội tốt cho quân tử; ngó thời thế đã sắp sửa hữu vi, gặp hồi Bĩ đã quá nửa, mà tài Tứ lại có thể xoay được Bĩ nên thánh nhân mừng mà nói rằng: Tứ ơi! Thì vận đã tới rồi, ở trên có hai dương là đảng quân tử của mình, mình hết sức lo một cách tấn hành cho đúng, chớ làm những việc lầm lỗi, thời chẳng những mình đƣợc tốt mà phe phái bạn hữu mình, cũng thảy dựa cậy vào mình mà đƣợc phúc chỉ.
Tượng viết: Hữu mệnh vô cựu, chí hành dã.
象曰: 有命無咎, 志行也.
Hào từ này Bĩ sắp cực, mà Thái sắp lai, chính là cơ hội vừa bắt đầu tốt, chỉ cốt cách hành động giữa mình cho được vô cựu, thời chí tế thế an bang của mình chắc được phát triển vậy.
PHỤ CHÚ: Cửu Tam quẻ Thái vừa đúng nửa Thái, thánh nhân sợ Bĩ sắp tới nên răn rằng: Gian trinh. Hào từ quẻ Bĩ vừa quá nửa Bĩ, thánh nhân mừng cho Thái sắp đến nên nói rằng: Hữu mệnh vô cựu.
Tuy nhiên, việc trong thiên hạ từ Thái bước sang Bĩ là việc rất dễ nên phải lo sẵn cho Cửu Tam; từ Bĩ mà bước sang Thái là việc rất khó nên thánh nhân chưa dám vội mừng, chờ đến Cửu Tứ thiệt thấy dương cương đắc vị, mới tỏ ra ý mừng.
Chúng ta nếu biết được ý ấy, thời gặp thì Thái chớ nên thị thường, tức là gian trinh; gặp thì Bĩ lo rình cơ hội, tức là hữu mệnh, có thì tiết nào mà chúng ta chán nản đâu.
5. Cửu Ngũ: Hưu bĩ, đại nhân cát, kì vong, hệ vu bao tang.
九五: 休否, 大人吉, 其亡, 其亡, 繫于苞喪.
Hưu: thôi nghỉ. Chữ kì này là hoạt động từ; vương: mất; kì vong: e có lẽ mất đó; hệ: giằng buộc; bao tang: ngùm rễ dâu. Dâu là giống ăn xuống đất rất sâu, ngùm rễ dâu lại càng khó nhổ nên có tượng bền chặt.
Hào này, ở giữa Ngoại Quái, Bĩ còn một hào nữa thời Bĩ hết. Theo về thì vận là Thái vận đã có cơ sắp tới; Cửu Ngũ có đức dương cương, trung chính lại ở vào vị chí tôn, mà lại gặp được hồi Bĩ sắp chung, Thái sắp tới. Tài đức ấy, cơ hội ấy, đứng ra gánh việc đời, chắc là thôi nghỉ được Bĩ cho thiên hạ, ấy là đạo tốt lành của đại nhân đó vậy.
Tuy nhiên, khi đương trị mà làm ra loạn thời dễ, khi đương loạn mà làm ra trị thời khó; huống gì hoàn cảnh Cửu Ngũ thiệt chưa ra khỏi Bĩ, tuy có tài toàn chuyển, may tạm thì Bĩ hưu, nhưng chưa nên vội mừng, phải nghĩ sâu tính xa, thường để ý vào phòng ưu lự hoạn, tự răn đe trong lòng rằng: E có lẽ mất đây chăng, e có lẽ mất đây chăng. Nếu được như thế, thời nền tảng mình đắp mới thêm bền, sự nghiệp mình làm mới thêm vững, một cách kiên cố như chằng buộc vào ngùm rễ dâu.
Ý nghĩa Hào từ này, xem Hệ tử giải thích càng rõ lắm. Xin tiện biên vào đây.
Tử viết: Nguy giả, an kì vị giả dã; vong giả bảo kì tồn giả dã; loạn giả hữu kì trị giả dã. Thị cố quân tử an nhi bất vong nguy, tồn nhi bất vong vương, trị nhi bất vong loạn. Thị dĩ thân an nhi quốc gia khả bảo dã.
子曰: 危者, 安其位也; 亡者, 保其存者也; 亂者, 有其治者也. 是故君子安而不忘危, 存而不 忘亡, 治而不忘亂, 國家可保也.
Hệ tử nói rằng: sở dĩ đến nỗi nguy là vì mình chắc an đƣợc vị mình đó vậy. Sở dĩ đến nỗi vong là vì mình thường chắc được tồn đó vậy. Sở dĩ đến nỗi loạn là vì mình thường chắc được trị đó vậy. Vì vậy cho nên đấng quân tử, xử gặp thì đã an rồi mà chẳng dám quên những sự nguy. Gặp thì đã tồn rồi mà chẳng dám quên cái họa vong, gặp thì đã trị rồi, mà chẳng dám quên cái cơ loạn. Vì được như thế nên thân mới an mà nước nhà mới giữ được vững vậy.
Tượng viết: Đại nhân chi cát, vị chính đáng dã.
象曰: 大人之吉, 位正當也.
Đại nhân ở Cửu Ngũ với đại nhân ở Lục Nhị vẫn in nhau một bậc đại nhân, nhưng đại nhân ở Lục Nhị hãy còn tại hạ vô vị, tuy có đức mà không thể hữu vi được, phải chịu Bĩ mới được hanh. Đại nhân ở Cửu Ngũ là địa vị chí tôn, đức đã thịnh vị lại tôn nên làm nổi sự việc hưu bĩ.
Đức tuy đồng mà vị khác nhau, thời làm công nghiệp cũng nhân cảnh ngộ mà khác nhau. Thế mới biết: Thời thế tạo anh hùng, vẫn có lẽ.
6. Thượng Cửu: Khuynh bĩ, tiên bĩ, hậu hỉ. 上九: 傾否, 先否後喜.
Thượng Cửu cũng lấy nghĩa bằng toàn quẻ, quẻ Bĩ đến hào Thượng là vị cuối cùng. Thượng là Bĩ đã cùng cực rồi. Hễ vật lí đã cùng cực, tất quay trở lại. Vậy nên bĩ cực tắc thái lai. Thượng Cửu chính gặp cơ hội ấy, mà lại giữa bản thân có tài dương cương, dắt kéo cả hai hào dương ở dưới lên nữa, ra tay toàn Càn, chuyển Khôn, đánh đổ được Bĩ. Duy ở thì cuối cùng Bĩ, thời nửa đoạn trước vẫn còn lo Bĩ, mà đến nửa đoạn sau, rành là hoan hỉ là vì lúc ấy đã bước lên Thái rồi.
Tượng viết: Bĩ chung tắc khuynh, hà khả trường dã.
象曰: 否終得傾, 何可長也
Bĩ đến Thượng Cửu là Bĩ chung rồi tất phải khuynh, có lẽ đâu Bĩ dài được. Thiên vận vẫn như thế, mà nhân sự cũng như thế.
PHỤ CHÚ: Dịch lí cốt ở nơi tinh thần, chẳng phải chỉ xem ở nơi văn tự. Văn tự là một giống mà thánh nhân mượn để tỏ ý nghĩa. Chúng ta phải hội lấy tinh thần ở ngoài văn tự, mới là biết học Dịch.
Lục Tam quẻ Thái chính là đương khi quân tử đạo trưởng, mà thánh nhân đã lo đến vô bình bất bí. Cửu Tứ quẻ Bĩ chưa khỏi thì tiểu nhân đạo trưởng, mà thánh nhân đã chắc rằng hữu mệnh vô cựu. Thế mới biết Thái chưa cực mà thánh nhân đã nghĩ đến Bĩ lai, Bĩ chưa cực mà thánh nhân đã nghĩ đến Thái lai. Chỉ trông mong cho chúng ta lấy nhân sự mà vãn hồi tạo hóa.
Nếu chờ đến Thượng Lục quẻ Thái mới biết được họa "thành phục vu hoàng", chờ đến Thượng Cửu quẻ Bĩ mới biết được phúc "khuynh Bĩ hậu hỉ", té ra chỉ ngồi nghe tạo hóa, có gì là nhân sự vãn hồi nữa đâu, như thế, thời thánh nhân chẳng cầu làm Dịch.
Thánh nhân làm Dịch chỉ cốt cho người ta biết Thái tương cực ở khi còn Cửu Tam, mà trước phải gian trinh, biết Bĩ tương cực ở khi còn Cửu Tứ mà trước lo cho vô cựu. Có như thế, mới là mắt đọc Dịch, mà chính là người xử thế biết nhắm cơ hội.
Lại còn một lẽ, nhân sự vẫn vãn hồi được tạo hóa nhưng tất phải có tài đức quân tử mới làm xong. Hào dương ở trong Kinh Dịch tượng là quân tử.
Ba hào ở Ngoại Quái quẻ Thái, tuy đương thì còn Thái, mà ba hào rặt là âm hào là tiểu nhân nên kết quả chẳng giữ được Thái. Ba hào ở Ngoại Quái quẻ Bĩ, tuy đương thì còn Bĩ, nhưng vì ba hào ấy rặt là dương hào là quân tử nên chẳng bao lâu đánh đổ được Bĩ.
Đó là thâm ý của thánh nhân bảo cho chúng ta nên quý quân tử mà tiện tiểu nhân vậy.
13. QUẺ THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN
Kiền trên; Ly dưới
Quẻ này là Thiên Hỏa Đồng Nhân. Li ở dưới cũng là Nội Li. Càn ở trên cũng là Ngoại Càn. Càn là Thiên, Li là Hỏa nên tên quẻ đọc bằng Thiên Hỏa Đồng Nhân.
TỰ QUÁI
Tự quái: Vật bất khả dĩ chung Bĩ, cố thụ chi dĩ Đồng Nhân.
序卦: 物不可以终否, 故受之以同人.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Bĩ tiếp lấy quẻ Đồng Nhân là vì cớ sao?
Bĩ nghĩa là bế tắc, cũng có nghĩa là cách tuyệt. Xưa nay đạo người không thể bế tắc mà cách tuyệt nhau mãi, trái lại, tất phải giao thông hòa hợp với nhau; vả lại có giao thông hòa hợp, đồng tâm hợp lực với nhau mới làm nên việc khuynh bĩ. Vậy nên sau quẻ Bĩ tiếp lấy quẻ Đồng Nhân. Theo về tượng quẻ, Thiên là vị ở trên, Hỏa là tính phụt lên trên là trạng thái Đồng Nhân.
Xem ở hai quẻ, hào Ngũ làm chủ cho Càn, hào Nhị làm chủ cho Li, hai hào có đức trung chính ứng với nhau là tượng thượng hạ tương đồng. Vì thiên hỏa đồng tượng, thượng hạ đồng tâm nên đặt tên quẻ bằng Đồng Nhân.
SOÁN TỪ
Đồng Nhân vu dã, hanh; lị thiệp đại xuyên, lị quân tử trinh.
同人于野, 亨; 利涉大川, 利君子貞.
Nghĩa đặt tên quẻ đã giải thích như trên, đây chỉ thích nghĩa Soán từ.
Nội Quái Li, Li là hỏa là nhật là điện là một giống rất văn minh. Ngoại Quái Càn, Càn là thiên, Li chung một quẻ với Càn, mà Li ở dưới Càn tượng là lửa bén lên tận trời, cũng tượng là mặt trời lên chính giữa trời, soi dọi khắp thế giới.
Đạo đại đồng của thánh nhân cũng xa, lớn như thế, tên gọi bằng Đồng Nhân nghĩa là: Tất thảy loài người đại đồng với nhau. Theo về đạo lí ấy, tất phải chí công lại đại công, chẳng thiên tư về một quốc gia nào, một dân tộc nào, một xã hội nào, như thế mới gọi bằng Đồng Nhân, nên Soán từ nói rằng: Đồng Nhân vu dã.
Dã: đồng không là dám đồng ở ngoài chốn không làng nước, thủ nghĩa bằng xa, và ngoài nên nói vu dã.
Đồng với người, mà lại đồng ở nơi giao đã khoáng viễn, chẳng kì người thân cận, chẳng kì chốn láng giềng, đầu xa lạ đến đâu, cũng đồng hết thảy. Như thế mới là đạo chí công đại đồng.
Thiên hạ đã đến lúc đại đồng, còn chốn nào chẳng thông được, mặc dầu đường đời khấp khểnh, lòng người hiểm sâu, nhưng đã đến lúc đại đồng, thời chẳng hiểm trở gì mà chẳng bằng, chẳng gian nguy gì mà chẳng lọt, dầu đại xuyên cũng lị thiệp. Đó chính là cảnh tượng đại đồng rất vui vẻ.
Tuy nhiên, muốn làm được đến cảnh tượng ấy, há phải phường tiểu nhân chỉ dùng ý riêng đi đường tắt, mà làm nên được rư? Nên lại nói rằng: Lị quân tử trinh nghĩa là đạo đồng nhân chỉ lị ở đạo chính quân tử mà thôi.
PHỤ CHÚ: Chữ dã, chữ xuyên, chỉ là mượn giống hữu hình mà chỉ vẽ lí vô hình. Rằng vu dã thời dầu xa mấy cũng đồng tới nơi. Rằng thiệp xuyên, thời dầu nguy hiểm mấy cũng đồng được thảy. Nếu chỉ hạn chế ở nơi chốn gần, ngăn đón ở nơi chốn hiểm, thời chẳng Đồng Nhân được, mà lại cốt ở quân tử trinh. Trinh, tức là trung chính. Đồng Nhân mà bất trung, tất nhiên có thiên vị, Đồng Nhân mà bất chính, tất nhiên chẳng lâu dài. Vậy nên muốn được Đồng Nhân, tất phải có quân tử trinh.
SOÁN TRUYỆN Soán viết: Đồng Nhân, nhu đắc vị, đắc trung nhi ứng hồ Càn, viết Đồng Nhân. Đồng Nhân vu dã, hanh, lị thiệp đại xuyên, Càn hành dã. Văn minh dĩ kiện, trung chính nhi ứng, quân tử chính dã. Duy quân tử vi năng thông thiên hạ chi chí.
彖曰: 同人, 柔得位, 得中而應乎乾, 曰同人 . 同人于野, 亨, 利涉大川, 乾行也. 文明以健, 中 正而應, 君子正也. 唯君子為能通天下之志.
Soán viết: Đồng Nhân, nhu đắc vị, đắc trung nhi ứng hồ Càn, viết Đồng Nhân.
Lời Soán Truyện đây lấy riêng một nghĩa, chuyên lấy thể quẻ mà thích chữ Đồng Nhân là ý đặc biệt của Đức Khổng.
Nhu chỉ vào Lục Nhị, Nhị là làm chủ quẻ Li. Bởi vì thể Li nguyên quẻ Càn, vì thay một nét âm vào giữa quẻ Càn mà thành quẻ Li nên gọi bằng chủ quẻ Li. Từ một hào Nhị thời bao được toàn quẻ Li.
Nhị đã âm nhu, ở vào âm vị là đắc vị. Nhị là vị giữa Hạ Quái, lại hào giữa quẻ Li là đắc trung, thượng ứng với hào Ngũ ở quẻ Càn là ứng hồ Càn.
Xem hai thể quẻ như thế là thượng hạ tương đồng, cũng là nội ngoại tương đồng nên đặt tên quẻ bằng Đồng Nhân.
Đồng Nhân vu dã, hanh, lị thiệp đại xuyên, Càn hành dã.
Có đức chí thành vô tư, cất nổi việc đạo nguy li hiểm, hành động như thế, thiệt đáng với đạo Càn vậy.
Càn là thiên, có đức đại công như thiên, che khắp thế giới, chẳng riêng một chốn nào, mới đồng được nhân.
Văn minh dĩ kiện, trung chính nhi ứng, quân tử chính dã.
Đây là thích câu: Lị quân tử trinh.
Theo về thể quẻ, Li có đức văn minh, Càn có đức cương kiện. Nhị, Ngũ có đức trung chính mà ứng với nhau, Li ở nội là văn minh chứa trữ ở phía trong; Càn ở ngoài là cương kiện tác dụng ở phía ngoài, mà lại vừa trung, vừa chính, mà ứng với nhau. Đó là đạo chính của quân tử.
Duy quân tử vi năng thông thiên hạ chi chí.
Câu này lại tiếp câu trên mà nói.
Duy bậc quân tử có đức văn minh cương kiện, trung chính, mới hay thông suốt được tâm chí của thiên hạ.
Tâm chí của thiên hạ, thiên trạng vạn thái, vẫn rất khó đồng, nhưng theo về nguyên lí của loài người, nếu dò xét cho đến chân tính, chân tình. Tỉ như: Đói ai cũng muốn ăn, rét ai cũng muốn mặc, khó nhọc ai cũng lấy làm khổ, sung sướng ai cũng lấy làm vui, thời một lẽ in như nhau. Nếu lấy lòng mình mà đặt vào lòng người, có cớ gì mà chẳng đồng được. Sở dĩ chẳng đồng được là vì chúng ta chẳng minh lí nên chẳng xét thấu tâm lí, người chẳng cương kiện nên chẳng cấm được tư tà mình. Kết quả thời không cảm hóa được tinh thần người, nên nỗi tâm chí của thiên hạ cách tuyệt nhau, mà chẳng thông được.
Duy quân tử có đức văn minh, thời soi lí sáng suốt, hiểu thấu nghĩa đại đồng, có đức cương kiện, thời bỏ sạch được tư tâm mà làm đúng đạo đại đồng. Như thế là hợp được đức trời, mà làm nên sự nghiệp trời, còn lo gì tâm trí thiên hạ chẳng thông được nữa rư?
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Thiên dữ hỏa, Đồng Nhân. Quân tử dĩ loại tộc biện vật.
象曰: 天與火, 同人. 君子以類族辨物.
Quẻ này Li với Càn chung làm một quẻ. Càn là thiên, thiên tại thượng, Li là hỏa, hỏa viêm thượng, có thể xu hướng đồng với nhau nên đặt tên quẻ bằng Đồng Nhân.
Quân tử xem tượng ấy mới nghĩ rằng: Ở trong vũ trụ, hễ mỗi người tài chất chẳng đồng với nhau, hễ mỗi vật tình trạng chẳng đồng với nhau làm thế nào mà đồng được. Quân tử mới nghĩ ra phương pháp, phân biệt cho ra những chốn khác nhau, mà thu xếp cho đến đồng nhau, tức là "loại tộc biện vật".
Loại nghĩa là tỉ giảo cho rõ ra từng loại. Tộc nghĩa là từng giống mà cũng là từng bọn. Biện nghĩa là phân biệt cho rành. Vật nghĩa là việc, cũng có nghĩa là cái, như ta nói cái nọ, cái kia, v.v.
Quân tử muốn làm được Đồng Nhân, bắt đầu phải phân biệt từng loại của các chủng tộc, biện minh ra mỗi sự vật mà xử trí cho mỗi đắc kì sở, ai nấy cũng thỏa thích sở cầu, ai nấy cũng phát triển sở năng, thủ đoạn tuy vẫn bất động nhưng kết quả thời là đại đồng.
Bây giờ xin thiết ra thí dụ cho rõ nghĩa tượng. Tỉ như: Loài cá là chủng tộc ở nước, loài chim là chủng tộc ở rừng, muốn cho nó được thỏa thích, tất phải thả cá xuống nước, phóng chim lên rừng, xử trí nó bất đồng, mà nó mới đồng được chốn sung sướng của nó. Đó là một nghĩa hình dung được "Loại tộc biện vật".
Lại tỉ như: Thuộc về sĩ tộc, thời ta sắp đặt cho họ việc văn học; thuộc về nông tộc, thời ta sắp đặt cho họ việc canh khẩn. Đến lúc kết quả, thời ai nấy cũng phát triển hết sở năng, ai nấy cũng thỏa thích được sở nguyện.
Rút cùng lại, thời in như học thuyết nhà xã hội: Các tận sở năng, các thủ sở nhu 各盡所能, 各取 所需.
Bởi vì mỗi tộc tất có mỗi sở năng, mỗi vật tất có mỗi sở nhu. Nếu chẳng loại cho rành, biện cho minh mà xử trí một cách cho hoàn thiện thời làm gì đến đại đồng được.
Thánh nhân sợ chúng ta chỉ xem mặt chữ đồng, mà nhận lầm nghĩa chữ đồng, toan ép uổng những bọn bất đồng lại làm cho đồng, té ra thả cá lên rừng, đưa chim xuống nước, mỗi học trò ra cày ruộng, rước phu cày ra làm bài; thời thành nhiễu loạn thiên hạ, mà có làm gì Đồng Nhân được đâu.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Cửu: Đồng Nhân vu môn, vô cựu.
初九: 同人于門, 無咎.
Sơ Cửu ở đầu hết thì Đồng Nhân là một người mới bắt đầu ra đời, ở trong lòng vẫn trong sạch, trong mắt chưa dây dính với ai, là vì có đức dương cương nên bắt đầu ra làm việc Đồng Nhân, có độ lượng khoan hồng mà hợp với công đạo, đồng với người mà đồng bằng một cách chí công, nên nói rằng: Đồng Nhân vu môn. Vu môn nghĩa là ra ngoài cửa.
Đồng Nhân mà được chí công chí đại như thế, thời còn ai trách lỗi được mình.
PHỤ CHÚ: Chữ môn là theo cách tượng hình, nguyên chữ hộ là cửa một cánh, cửa ở trong nhà; dựng hai cánh ở hai bên, tượng thành chữ môn ở cửa ngoài.
Vu môn là thủ tượng bằng ra ngoài đường mà Đồng Nhân nghĩa là chẳng phải đồng với người trong một nhà, dầu người một nước, một thế giới, mà cũng đồng cả. Đồng như thế là rộng lớn lấm, chẳng mắc tệ thiên tư chật hẹp nên vô cựu.
Tượng viết: Xuất môn Đồng Nhân, hữu thùy cựu dã.
象曰: 出門同人, 又誰咎也.
Ta với người vẫn thông đồng với nhau, sở dĩ sinh ra hạn cách là vì có môn, mới sinh ra giới hạn kẻ trong người ngoài. Nếu ở trong cửa mà nói Đồng Nhân, thời ai tin mình. Bây giờ ra khỏi ngoài cửa mà Đồng Nhân, thời sở đồng không phạm vi không giới hạn, đã đồng được rộng lớn như thế, lại còn ai trách lỗi được mình nữa.
PHỤ CHÚ: Người đời xưa đặt câu đặt chữ, thường thường chữ in nhau, mà ý nghĩa khác nhau, tức như câu: Hữu thùy cựu đã ở Lục Tam quẻ Giải, quẻ Tiết, với Sơ Cửu quẻ Đồng Nhân, chung một câu mà ý nghĩa khác nhau.
Ờ quẻ Tiết, quẻ Giải, hữu thùy cựu dã nghĩa là còn trách lỗi được ai nữa, chỉ trách lỗi mình mà thôi. Đến như quẻ Đồng Nhân thời câu hữu thùy cựu dã lại nghĩa là không ai trách lỗi nữa. Đó cũng là một lẽ xem chữ xem văn của cổ nhân.
2. Lục Nhị: Đồng Nhân vu tông, lẫn.
六二: 同人于宗, 吝.
Hào Lục ở vị Nhị: tuy đắc trung, đắc chính, nhưng ở vào thì Đồng Nhân, thời cốt trọng ở nghĩa đại đồng. Mà Lục Nhị này có ứng riêng với Cửu Ngũ, một âm, một dương ríu rít với nhau, thành ra cách đồng chật hẹp lắm. Tượng như Đồng Nhân mà chỉ đồng với người trong họ mình mà thôi nên nói rằng: Đồng Nhân vu tông. Tông nghĩa là dòng, cũng có nghĩa là hệ thống.
Đồng Nhân mà chỉ đồng trong hệ thống của mình là trái hẳn nghĩa đại đồng, thiệt một cách đáng xấu hổ.
Tượng viết: Đồng Nhân vu tông, lẫn đạo dã. 象曰: 同人于宗, 吝道也. Đồng Nhân mà chỉ đồng với người tông phái mình, Đồng Nhân mà chật hẹp như thế, thật là một lối đáng xấu hổ đó vậy.
PHỤ CHÚ: Theo về thể toàn quẻ, thời đức Văn Vương phát minh nghĩa đại đồng nên lời quẻ rằng: Đồng Nhân vu đã, hanh. Dã nghĩa là rộng lớn chi cực. Đến lời nghĩa từng hào, thời Chu Công cốt răn những người làm cách tiểu đồng nên lời hào nói rằng: Đồng Nhân vu tông, lẫn. Tông; hẹp chi cực. Rộng chi cực, thời được chữ hanh; hẹp chi cực, thời mắc chữ lẫn.
Nghĩa quẻ, nghĩa hào đắp đổi phát minh cho nhau, chúng ta học Dịch phải nhận kĩ cả hai bên.
3. Cửu Tam: Phục nhung vu mãng, thăng kì cao lăng, tam tuế bất hưng.
九三: 伏戎于莽, 升其高陵, 三歲不興.
Hào Cửu vị Tam là dương hào lại cư dương vị, mà vị Tam lại bất đắc trung, tượng là một người cường bạo, nhưng ở về thì Đồng Nhân, vì phong trào lùa đẩy, ai cũng muốn đồng được nhân là thích. Trong quẻ chỉ một hào Nhị là hào âm, mấy hào dương kia rặt muốn đồng với Nhị, Tam lại ở gần cạnh Nhị nên càng thiết đồng với Nhị, nhưng Nhị là một người trung chính, đã ứng với Ngũ rồi.
Cửu Tam vì chứng cương cường, ở chen vào khoảng Nhị, Ngũ, muốn cướp Nhị mà dắt về tay mình, nhưng vì lí đã khuất mà thế cũng thua nên chẳng dám ra mặt thẳng tay, chỉ là một cách rình lén, tượng như nấp dấu đồ binh khí ở rừng. Nhung: đồ binh; mang: rừng; phục: nấp.
Nấp giấu đồ binh khí ở rừng là ý muốn đánh cướp hào Nhị, nhưng vì tự phản bất trực nên phải sơ hãi rụt rè, thấp thoảng lại đứng lên gò cao, cúi trông tình hình Nhị, chờ xem có dịp gì hay không. Tuy nhiên, lẽ trong thiên hạ, tà bất thắng chính, Cửu Tam tuy rình lén đến ba năm, kết quả chẳng dám phát động.
Cao lăng là cồn cao, hào Tam ở trên hết Nội Quái, tượng là cồn cao. Vì thế lực chẳng địch nổi Ngũ, nghĩa lí lại thua Nhị nên chỉ núp quân mà chẳng dám dậy.
Chữ hưng là phản đối với chữ phục. Phục: nấp; hưng: dậy.
PHỤ CHÚ: Hào từ này miêu tả tình trạng đứa tiểu nhân thiệt rất đúng. Muốn tranh người mà lại lo sức mình địch chẳng nổi. Biết sức mình địch chẳng nối, nhưng vẫn cứ lo rình cướp người, một giống sâu mọt, ở thì Đồng Nhân chính như bọn Cửu Tam. Ở trong quẻ Đồng Nhân mà có Hào từ này, chúng ta nên biết rằng: Làm Đồng Nhân thiệt rất khó.
Tượng viết: Phục nhung vu mang, địch cương dã, tam tuế bất hưng, an hành dã. 象曰: 伏戎于莽,敵剛也, 三歲不興, 安行也.
Cửu Tam phục nhung vu mang là muốn kình địch với dương cương là Ngũ vậy. Tam muốn cướp Nhị, nhưng Nhị là chính ứng với Ngũ, chẳng đánh đổ được Ngũ thời chẳng cướp được Nhị: chỉ vì thế lực Ngũ quá mạnh mà nghĩa lí Nhị quá chính, Tam phải lôi thôi rè rụt, đến nỗi tam tuế bất hưng, thôi thì hành động được cách gì nữa.
Lời hào này là lời thánh nhân mắng bọn tiểu nhân, mà cũng may cho nó biết kiêng sợ, còn hơn một bọn tiểu nhân nhi vô kị đạn, nên Hào từ không có chữ hung.
4. Cửu Tứ: Thửa kì dung, phát khắc công, cát.
九曰: 乘其墉, 弗克攻, 吉.
Hào Cửu vị Tứ là dương cương lại bất trung chính. Ở về thì Đồng Nhân cũng muốn đồng với Nhị mà ghen với Ngũ như tình hình Cửu Tam. Vì ở trên Cửu Tam nên ghen lây đến Cửu Tam, toan lăng áp Cửu Tam mà cướp lấy Nhị, tượng là thừa kì dung (Thừa: cưỡi; dung: bức tường). Hào Tam cách giữa khoảng Nhị với Tứ, tượng là bức tường. Tứ toan vượt qua Tam mà đánh đổ Nhị, tượng là cưỡi bức tường.
Nếu Tứ mà thực hành lí tưởng ấy là dĩ tà phạm chính, kết quả cũng như Cửu Tam: còn gì tốt nữa. May thay! Cửu tuy thể cương mà Tứ là chất nhu, vì dương cương mà pha vào nhu thuận nên biết hồi đầu nghĩ lại, tự tri mình là bất trực, không thể áp được Tam mà công được Nhị.
Biết được như thế là chịu phục tùng với công lí mà chẳng mắc cái họa hại bằng tư tình; một người biết cải quá như thế, sách Tả Truyện có câu: Quá nhi năng cải, thiện mạc đại yên 過而能 改善莫大焉, nghĩa là: Có điều lỗi mà hay đổi, chẳng điều lành gì lớn hơn vậy, nên Hào từ được chữ cát.
Tượng viết: Thừa kì dung, nghĩa phất khắc dã, kì cát, tắc khốn nhi phản tắc dã.
象曰: 乘其墉, 義弗克也, 其吉, 則困而反則也.
Tứ đã thừa kì dụng, vẫn có thể công được, vì sao mà phất khắc công? Là vì khuất phục với nghĩa, mà đành chịu phất khắc vậy. Thế vẫn đánh được, vì nghĩa mà chịu thua là một người hiểu đạo lí, thức thì vụ nên kết quả được cát. Sở dĩ được cát là vì khốn khó mà quay trở lại đường thiên lí vậy.
PHỤ CHÚ: Hai chữ tắc có hai nghĩa, chữ tắc trên là chuyển tiếp từ, tắc nghĩa là thời; chữ tắc dưới là danh từ, tắc nghĩa là đạo lí, cũng như nghĩa pháp tắc, nguyên tắc ta thường hay dùng.
Cửu Tam với Cửu Tứ tình hình lúc đầu vẫn giống nhau. Tam cận với Tứ mà tranh Nhị, Tứ cận với Tam mà tranh Nhị, hai hào thảy có tư tưởng xấu, nhưng vì Tứ thời mới phát sinh tư tưởng mà chưa hiện được sự thực chỉ thừa kì dung mà thôi. Còn Cửu Tam thời đã phục nhung vu mang là sự thực đã phát hiện, nên ở hào Tam nói rằng: Tam tuế bất hưng, mà ở hào Tứ thời nói rằng: Phất khắc công.
Kinh Xuân Thu: Văn Công thập hữu tứ niên, Tấn nhân nạp Tiệp Tri vu Trâu, phất khắc nạp. Người nước Tấn lấy binh lực nạp tên Tiệp Tri về nước Trâu, ép nước Trâu lập Tiệp Tri làm vua, nhƣng vì nghĩa con thứ không thể đoạt đƣợc đích, phải chịu lui mà chẳng nạp, Kinh chép: Phất khắc nạp nghĩa cũng như chữ Phất khắc công ở đây.
5. Cửu Ngũ: Đồng Nhân, tiên hào đào nhi hậu tiếu, đại sư khắc, tương ngộ. Cửu Ngũ dương cương, trung chính, mà kẻ chính ứng với Ngũ tất là Lục Nhị âm nhu mà trung chính. Trung chính với trung chính ứng nhau, tâm đồng, đức đồng, ở vào thì Đồng Nhân như hai người ấy, chắc đồng được tốt lắm, nhưng vì giữa khoảng Nhị với Ngũ có hai hào dương là Tam với Tứ, chúng thấy Nhị âm nhu, toan muốn cưỡng đồng với Nhị. Nhân hiềm vì Ngũ nên chẳng khỏi giọng dèm pha, chê bai. Ngũ vì thế mà chưa được đồng với Nhị ngay, thấy bạn đồng tâm mình mà bị nghẹn vì hoàn cảnh nên lúc trước vẫn cũng có than thở kêu rêu, nhưng vì nghĩa lí đánh đổ được hoàn cảnh, bọn Tam, Tứ kết quả phải chịu thua. Nhị, Ngũ kết quả cũng hội họp được với nhau, gặp nhau mà cười nói vui vẻ. Hào đào nghĩa là kêu rêu.
Tà bất thắng chính, tuy đành như thế, nhưng mà Tam, Tứ hai hào dương cương, đồng ác tương tế mà Lục Nhị thời âm nhu, sức chẳng địch nổi được họ nên Cửu Ngũ muốn cứu viện Nhị tất phải dùng đến sức quân lớn đánh họ mới có thể ngộ hợp được.
PHỤ CHÚ: Hào từ Cửu Ngũ này, thánh nhân chỉ mượn hai hào Nhị, Ngũ nói sự tương đồng khó khăn như thế để tỏ rõ được việc Đồng Nhân chẳng phải dung dị.
Xưa nay người đời thiện thường ít mà ác thường nhiều, chính thường ít mà tà thường nhiều, cảnh đời thuận thường ít mà nghịch thường nhiều nên bao giờ hòa bình cũng trải qua vô số chiến tranh, tạo phúc cũng thường nhờ có lưu huyết. Tức như hào Ngũ, hào Nhị thảy trung chính ứng với nhau, đâu còn gì cay co, khốn nạn, nhưng vì bị Tam, Tứ sở cách đến nỗi trước phải hào đào, sau phải đại sư khắc mới được tương ngộ. Chỉ hai người làm việc đồng mà cay co đến thế, huống gì làm việc đại đồng cả thiên hạ ư! Nghĩ cho hết cách, quanh đi quẩn lại rồi phải nói đến cách mệnh, chủng tộc cách mệnh chưa xong, quốc gia cách mệnh cũng chưa xong, tất lại phải tính lên xã hội cách mệnh, thế giới cách mệnh, trung gian trải vô số khóc lóc kêu van, thở than, hò hét mà chúng ta đã bao giờ được một tiếng cười đâu.
Nói tóm lại, chỉ duy đại sư khắc tương ngộ. Đại sư khắc là giống gì? Là cách mệnh, cách mệnh.
Tượng viết: Đồng Nhân chi tiên, dĩ trung trực dã, đại sư tương ngộ, ngôn tương khắc dã.
象曰: 同人之先, 以中直也. 大師相遇, 言相克也.
Đồng Nhân đáng lẽ là việc rất thuận dị, vì cớ sao mà trước phải hào đào? Chỉ vì Cửu Ngũ tự xét trong lòng mình vẫn lí trực, mà bị cách với Tam, Tứ nhị dương nên chưa gặp Lục Nhị, đó là một việc rất bất bình.
Hán Văn có câu: Phàm vật bất đắc kì bình tắc minh 凡物不得其平則鳴, nghĩa là: Hễ tình người chẳng được bằng thỏa thời sinh kêu. Hào đào cũng là minh cái bất bình đó.
Đại sư khắc tương ngộ là nói thế lực nhị dương (Tam, Tứ) vẫn là tay cường địch với Ngũ, tất phải đánh được nhau mới an.
PHỤ CHÚ: Đọc Hào từ, tượng từ Cửu Ngũ quẻ Đồng Nhân khiến cho sinh một mối cảm xúc. Thiên hạ vẫn chẳng gì mạnh hơn công lí nhưng đồng khi chống chọi với cường quyền, thời công lí chỉ thành một vị thần chiếu giám, nếu không có tay hộ pháp thời công lí chỉ là miệng tày.
Xưa nay có miệng tày mà chế phục được cường quyền hay sao? Thử xem Cửu Ngũ với Lục Nhị chính ứng với nhau, lí vẫn trực, từ vẫn tráng, mà bị Tam Tứ Nhị dương ỷ cương trở cách phải dùng đến đại sư khắc mới tương ngộ, mới biết công lí là tay mặt, vũ lực là tay trái. Chẳng đủ hai bàn tay ấy thời chớ nói rằng: Hữu công lí, vô cường quyền.
6. Thượng Cửu: Đồng Nhân vu giao, vô hối.
上九: 同人于交, 無悔.
Giao nghĩa là đám đất ngoài quốc đô.
Trên Soán từ nói rằng: Đồng Nhân vu dã, giao mà so với dã hãy còn hẹp, mà so với môn, với tông thời đã rộng nhiều.
Thượng Cửu ở Ngoại Quái chi chung, chính là vị ở ngoài mà xa Đồng Nhân đã rộng được như thế, cũng chẳng kể bằng chật hẹp, nhưng còn ở trong quẻ, chưa phải là không phạm vi, không giới hạn nên nói rằng: Đồng Nhân vu giao. Giao là chưa được rộng lớn bằng dã, dã còn ở ngoài giao kia mà. Vì chưa được rộng lớn như Đồng Nhân vu dã nên kết quả chỉ khỏi ăn năn mà thôi.
Tượng viết: Đồng Nhân vu giao, chí vị đắc dã.
象曰: 同人于交, 志未得也.
Quân tử xử về thì Đồng Nhân, theo chí nguyện của mình, thời dân giai ngô bào, vật giai ngô dữ 民皆吾胞, 物皆吾與. Ở trong bốn bể, tất thảy là anh em mới thích.
Bây giờ chỉ Đồng Nhân vu giao mà thôi, thời so với Đồng Nhân vu dã, còn chưa lấy gì làm mãn nguyện.
PHỤ CHÚ: Đọc suốt toàn quái Đồng Nhân, phát minh được hai đạo lí.
Một là: Đạo lí trong thiên hạ, chẳng bao giờ tuyệt đối, mà chỉ là tương đối (Đồng với Nhị là tương đối), ở giữa thì Đồng Nhân, mà hào Sơ thời chỉ ra khỏi cửa, hào Nhị thời chỉ ở trong phe phái mình, hào Tam thời lên nấp ở rừng, hào Tứ thời cưỡi lên tường cao, toan kình địch với hào Ngũ. Đến hào Ngũ thời cầu ứng với hào Nhị mà phải cần đến đại sư khắc. Thế mới biết: Nhân dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân 人以类聚, 物以羣份, nghĩa là: Người nhóm theo từ loại, vật chia theo từ bầy.
Cái dị biết bao nhiêu, mà muốn xoay làm đồng, thiệt việc rất khó, nhưng lại có một đạo lí nữa, mỗi ở trong tương đối tất có một cái tuyệt đối gửi ở trong.
Lửa, thời bao giờ cũng tuyệt đối nóng, nước, thời bao giờ cũng tuyệt đối lạnh, nhưng chúng ta nhận định một cách biến dịch, giao dịch ở trong Kinh Dịch: Đem lửa đốt ở dưới nước, thời nước cũng có lúc sôi mà hóa ra nóng. Đem nước xối lên trên lửa, thời lửa cũng có lúc tắt mà sinh ra lạnh.
Chỉ duy thông hết vật tình, thấu hết vật lí, điều tệ hòa hợp, chẳng thiên về phía nào, khiến cho việc gì đều các đắc kì nghi 各得其宜, giống gì đều các đắc kì bình 各得其平, thời tóm góp bao nhiêu cái dị mà quy kết lại làm đồng, vẫn chẳng phải tuyệt dối chẳng làm đƣợc. Vậy nên Đức Khổng có câu thiên hạ vi công, thị vị đại đồng 天下爲公, 是謂大同, mà xã hội học giả ở đời nay cũng bàn đến thế giới cách mệnh.
14. QUẺ HỎA THIÊN ĐẠI HỮU
Ly trên; Kiền dưới
Quẻ này là quẻ Hỏa Thiên Đại Hữu.
Càn hạ cũng là Nội Càn; Lí thượng cũng là Ngoại Li. Li là Hỏa, Càn là Thiên, nên tên quẻ đọc bằng Hỏa Thiên Đại Hữu.
TỰ QUÁI
Tự quái: Dữ nhân đồng giả, vật tất quy yên, cố thụ chi dĩ Đại Hữu.
序卦: 與人同者物必歸焉, 故受之以大有.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Đồng Nhân tiếp lấy quẻ Đại Hữu là vì cớ sao?
Đồng Nhân là cộng đồng với người, đã làm nên những việc cộng đồng với tất thảy người, thời tất thảy người về với mình. Vậy nên sau quẻ Đồng Nhân, tiếp lấy quẻ Đại Hữu. Đại Hữu nghĩa là sở hữu rất lớn. Quẻ này Li tượng là mặt trời là lửa, Càn, tượng là trời; mặt trời với lửa ở tận trên trời, tia sáng đã tột mực cao, thời chói dọí cũng tột mực xa là tượng Đại Hữu.
SOÁN TỪ
Đại Hữu nguyên hanh. 大有元亨.
Lời quẻ chuyên thủ tượng bằng thể quẻ, với đức quẻ. Thể Càn thời có đức cương kiện, thể Li thời có đức văn minh. Vì có đức cương kiện hàm súc ở trong, lại có chất văn minh phát triển ở ngoài, cương kiện với văn minh gồm cả hai đức ấy, thuận với thì trời mà soi dọi với muôn vật, còn làm việc gì mà chẳng tốt lớn thông thuận nữa rư!
Đại Hữu mà được như thế tất nguyên hanh.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Đại Hữu, nhu đắc tôn vị, đại trung nhi thượng hạ ứng chi, viết Đại Hữu. Kì đức cương kiện nhi văn minh, ứng hồ thiên nhi thì hành, thị dĩ nguyên hanh.
彖曰: 大有, 柔得尊位, 大中而上下應之, 曰大有. 其德剛婕而文明, 應乎天而時行, 是以元亨
Soán viết: Đại Hữu, nhu đắc tôn vị, đại trung nhi thượng hạ ứng chi, viết Đại Hữu.
Đây là lấy thể quẻ thích nghĩa tên quẻ.
Xem cả sáu hào trong quẻ, hào Ngũ là hào âm nhu, ở vào vị chí tôn. Ngũ là vị trung, có đức trung ở vào thời Đại Hữu thì đức trung ấy lớn lắm. Vì có đức đại trung như thế nên trên dưới toàn năm hào dương, tất thảy thuận ứng với Ngũ nên đặt tên quẻ bằng Đại Hữu.
Đại Hữu có hai nghĩa: Một là, bao nhiêu loài đại về mình cả thảy, đại là chỉ vào ngũ dương, một âm thống được năm dương nên nói rằng Đại Hữu. Đó là nghĩa đặc biệt ở trong Kinh Dịch.
Lại một nghĩa là sở hữu thiệt lớn. Vì ở sau lúc đã Đồng Nhân rồi, mà lại trên đưới thuận ứng với một vị đại trung là sở hữu bằng một cách rất lớn. Đó là nghĩa thông thường trong Kinh Dịch.
Kì đức cương kiện nhi văn minh, ứng hồ thiên nhi thì hành, thị dĩ nguyên hanh.
Đức quẻ: Nội Càn là ở trong có đức cương kiện, Ngoại Li là ở ngoài có đức văn minh. Lại Lục Ngũ ở trong quẻ, tượng là vị nguyên thủ ở trong một nước, thuận ứng với Cửu Nhị là chủ Càn. Xem góp đức toàn quẻ như thế, chính là cương kiện nhi văn minh, ứng hồ thiên nhi thì hành.
Thì hành nghĩa là đúng với thì mà làm, vì thế mà được nguyên hanh.
PHỤ CHÚ:
Nguyên hanh mà được kết quả tốt, nhân sở dĩ tạo nhân ra được nguyên hanh thời nhờ có cương kiện văn minh mà chú trọng nhất là chữ kiện, kiêm cả chữ minh.
Ông Tư Mã Quang có nói rằng: Kiện nhi bất minh, tắc tiền hữu sàm nhi bất kiến, hậu hữu tặc nhi bất tri. Minh nhi bất kiện, tắc tri thiện nhi bất năng cử, tri ác nhi bất năng khử dã
健而不明, 則前有讒 而不見, 後有賊而不知. 明而不健, 則知善而不舉, 知惡而不去也.
Nghĩa là: Có đức kiện mà không đức minh, thời ở mặt trước có người sàm mà chẳng thấy, mặt sau có người tặc mà chẳng biết (Sàm nghĩa là người dèm pha). Có đức minh mà không đức kiện, thời biết người kia lành mà chẳng hay cử lên, biết người kia ác mà chẳng hay trừ bỏ.
Thế là: Thiếu đức minh, hoặc đức kiện, thảy làm cái múi cho loạn vương, tất phải có đức minh vừa đủ soi, có đức kiện vừa đủ quyết, xử chẳng bao giờ thất trung làm chẳng bao giờ thất thì, được như thế mới Đại Hữu nguyên hanh.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Hỏa tại thiên thượng, Đại Hữu. Quân tử dĩ át ác dương thiện, thuận thiên hưu mệnh.
象曰: 火在天上, 大月. 君子以遏惡揚善, 順天休命.
Li Hỏa ở trên Càn Thiên, bao nhiêu loài vật soi dọi được thấu cả, thế là Đại Hữu.
Quân tử ở về thời Đại Hữu, đã bao bọc chất chứa được rộng lớn, thời phải có một phương pháp thống trị cho rất hay.
Nhưng vì ở trong lúc ấy, loài người có kẻ ác, kẻ thiện, nếu chẳng phân biệt xử trí, tất đến nỗi thanh trọc hỗn hào, thị phi điên đảo, mà nghiệp Đại Hữu đó trở lại gây nên cuộc đại loạn. Quân tử vì lo như thế nên hễ người nào ác tuy chưa rõ, trước phải ngăn đón ngay, hễ người nào thiện còn uất ức, gấp lo biểu dương ngay làm như thế để thừa thuận mệnh tốt của trời.
Át: ngăn dứt; dương: biểu bạch. hưu: tốt.
Nguyên mệnh trời phú cho người, chỉ có thiện mà không có ác; tuyệt loài ác, dương loài thiện, chính là thuận mệnh trời đó vậy.
PHỤ CHÚ: Tượng Truyện hai quẻ Đồng Nhân, Đại Hữu tiếp với nhau, mà cũng thành cho nhau, khi chưa Đồng Nhân tất phải loại tộc, biện vật để phân biệt ra được thiện ác. Khi đã phân biệt được thiện ác rồi, tất phải át ác dương thiện, mới làm nên được Đồng Nhân mà giữ gìn được Đại Hữu.
Nói tóm lại, loại, biện là quy mô, át, dương là thủ đoạn, mà làm nên Đồng Nhân, Đại Hữu chính là mục đích. Muốn cho đạt được mục đích, tất phải có quy mô, thủ đoạn như hai Tượng Truyện mới hay.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Cửu: Vô giao hại, phỉ cựu, gian tắc vô cựu.
初九: 無交害, 匪咎, 難則無咎.
Ở về đầu thời Đại Hữu mà xử vào địa vị Sơ Cửu tượng như con một nhà phú quý, mà còn đương ở vị ti thấp, chưa mấy ai xu phụ với mình, chưa làm nên những việc gì tai hại, đáng lẽ không việc gì tội lỗi, nhưng đã chắc gì, hễ giàu là kho chứa oán, áo đẹp người chỉ trỏ càng nhiều. Vậy nên xử vào cảnh thản thuận, càng nên căng trì khủng cụ, xem như xử lúc gian nan, thời mới chắc khỏi tội lỗi.
PHỤ CHÚ: Hào từ dạy người lấy tâm lí mà chống với hoàn cảnh, theo về hoàn cảnh Sơ Cửu, bắt đầu ở vào buổi phú hữu mà lại chưa dính vào việc đời, chỉ là một hạng người phú quý hưởng phúc làm gì mà có tội lỗi. Đó là nói về hoàn cảnh nên có chữ "Phỉ cựu".
Nhưng thường tình, đã quý thời hay sinh ra kiêu, đã phú thường hay sinh ra xỉ. Nếu quên gian nan chốc phút, thời họa loạn sinh ra ngay, nên lại răn cho rằng: Gian tắc vô cựu. Thế mới biết: hoàn cảnh tốt, mà tâm lí xấu, thời chớ thấy tốt mà mừng, hoàn cảnh xấu mà tâm lí tốt, thời chớ thấy xấu mà sợ. Nghĩa là: Lấy tâm lí mà chống với hoàn cảnh, chớ để hoàn cảnh lừa gạt mình. Đó là thâm ý của Hào từ này.
Tượng viết: Đại Hữu Sơ Cửu, vô giao hại dã.
象曰: 大有初九, 無交害也.
Xem Tượng Truyện hào này, thời biết được: Chúng ta sinh ở trong vũ trụ chẳng bao giờ tránh khỏi thì với vị. Thì là giờ mình tao tế; vị là chốn mình đứng ngồi; thì, vị thuận, thời ta được thong thả. Thì, vị nghịch, thời ta phải khó khăn. Xem như hào này thì Sơ là ở thời Đại Hữu là một người gặp vận hạnh phúc, vị Sơ là vị đầu quẻ, lại là một người còn ở ngoài cuộc đời nên Sơ được vô giao hại.
2. Cửu Nhị: Đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cựu.
九二: 大車以裁, 有攸往, 無咎.
Hào Cửu ở vị Nhị là dương cương đắc trung, Cửu là cương kiện, vẫn có tài hữu vi. Nhị là nhu thuận, lại có đức khiêm tốn, mà lại ở trên có Lục Ngũ hết sức tín nhậm mình, trao gánh nặng thiên hạ ở trên vai Cửu Nhị, thành ra ở đời Đại Hữu, duy Cửu Nhị có sức lớn đỡ gánh nặng, tượng như cỗ xe lớn đi đường xa chở) đồ nặng, tài như thế, đức như thế, mà thì vị lại như thế, thời làm việc gì chẳng nên, đi chốn nào chẳng đến.
Ba chữ "hữu du vãng" là bảo hào này đã gánh trách nhậm nặng, tất phải có làm sự nghiệp lớn. Nếu vô du vãng, thời e có lỗi. Hữu du vãng nghĩa là có đi chốn nào, hay làm việc gì.
Du như nghĩa chữ sở; vãng như nghĩa chữ hành vi.
PHỤ CHÚ: Hào này là hào tốt nhất ở trong quẻ Đại Hữu, mà lời đoán của thánh nhân chỉ vô cựu mà thôi, chẳng cho chữ cát, hanh. Đó mới biết thánh nhân chẳng bao giờ dạy người quá đắc ý, cũng chẳng bao giờ dạy người quên nghĩa vụ.
Một hạng người như Cửu Nhị tài cao hơn hết thiên hạ, gánh nặng hơn hết thiên hạ, tuy đại xa dĩ tái, cũng chỉ là vừa trọn nghĩa vụ mình mà thôi. Vậy nên, Hào từ chỉ có hai chữ: Vô cựu.
Tượng viết: Đại xa dĩ tái, tích trung bất bại dã.
象曰: 大車以載, 積中不敗也.
Có đức trung như Cửu Nhị là gánh được việc nặng ở đời Đại Hữu, tượng như cỗ xe lớn đem chở đồ nặng, thời những đồ chứa trữ ở trong xe, chắc chẳng đổ bể vậy.
PHỤ CHÚ: Hào từ này [có thể dùng để] xem người trong sử Đông, Tây. Vê phương Đông thời Ông Y Doãn, về phương Tây thời Ông Gia Phú Nhĩ (Camille Bensôc Cayour), đúng được như Cửu Nhị này. Ông Y Doãn ra ứng sinh giúp vua Thang mà nói rằng: Ta quyết khiến cho vua ấy làm được như vua Nghiêu, vua Thuấn, khiến cho dân ấy được như dân đời Nghiêu, Thuấn. Thầy Mạnh khen ông ấy là Thánh chi nhậm. Nhậm nghĩa là gánh.
Ông Gia Phú Nhĩ làm tưởng cho nước Ý Đại Lợi, kinh dinh cho nước thông nhất cường thịnh, Ông trọn đời không lấy vợ. Người hỏi Ông, Ông trả lời rằng: nước Ý Đại Lợi là vợ của tôi. Sức lớn gánh nặng như hai ông ấy, thiệt là đại xa dĩ tái.
3. Cửu Tam: Công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc.
九三: 公用亨于天子, 小人不克.
Thiên tử nghĩa là một vị nguyên thủ ở trong thiên hạ, ở về đời phong kiến tức là hoàng đế; không ở về đời phong kiến thời hễ ngườì nào làm nguyên thủ của một nước cũng có thể lấy ý mà thông dụng được. Công là hạng người có tước vị rất cao, theo về đời chẳng phải phong kiến, thời vị tổng trưởng hoặc úy viên trưởng cũng có thể xưng bằng công được. Hưởng là tiệc yến rất sang trọng, tiệc yến mời được thiên tử, tất phải được hạng người như bậc công.
Hào này, Cửu là dương cương, ở vào vị Tam là đắc chính, ở trên hết Nội Quái là có vị cao, tượng như vị công. Một hạng người có đức cương chính, mà ở vào vị cao, vẫn là đức ứng kì vị, mà lại ở vào thời Đại Hữu tất nhiên có thổ địa, có nhân dân, người nguyên thủ một nước, cũng phải thân tiếp với mình, tượng như ông tước công dọn tiệc mời thiên tử, mà thiên tử đến ăn tiệc ở nhà tước công.
Tuy nhiên, đã quý thời phải bất kiêu, đã phú thời phải bất xỉ, có thế thời phú quý mới được phúc. Tất duy quân tử mới đương nổi Hào từ này. Nếu tiểu nhân mà được sung sưởng bằng hưởng thiên tử tất nhiên kiêu xa, dâm dật, tội lỗi tới ngay, không thể chịu nổi (Phất nghĩa chữ bất; Khắc nghĩa là đương nổi).
Tượng viết: Công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân hại dã.
象曰: 公用亨于天子, 小人害也.
Đương ở thời Đại Hữu, mà lại được vinh hạnh thiên tử tới hưởng cho mình. Theo về quân tử thời vẫn đang nhiên. Nếu tiểu nhân thời chỉ làm hại cho nó. Bởi vì nhà đã giàu, vị lại cao, thân lại quý, kiêu xỉ ngày càng thêm, e có lúc sát thân vong gia, thời Đại Hữu hóa ra đại hại nên nói rằng: tiểu nhân hại dã.
4. Cửu Tứ: Phĩ kì bành, vô cựu.
九四: 匪其彭, 無咎.
Bành nghĩa như chữ bành trong Kinh Thi: Hành nhân bành bành, bành nghĩa là rầm rộ.
Hào này ở về thời Đại Hữu đã quá nửa rồi là Đại Hữu đã thịnh lắm. Cửu có tính dương cương, mà ở vị trí Tứ, thế là bất trung, bất chính.
Hạng người bất trung, bất chính như thế mà xử vào địa vị phú thịnh e có nguy họa tới nơi. Thánh nhân mới có lời răn rằng: Tứ này nếu xử phú mà in như bần, xử thịnh mà thường lo suy, biết quên hẳn phú thịnh của mình, thế là một người có đức khiêm tốn tiết kiệm, không bị hoàn cảnh xô đổ mình, mới được vô cựu.
Tượng viết: Phỉ kì bành, vô cựu, minh biện tích dã.
象曰: 匪其彭, 無咎, 明辯晳也.
Ở thời Đại Hữu, hưởng nghiệp Đại Hữu, mà quên sở hữu của mình lớn, chắc những hạng người ấy có trí khôn rất minh, biện biệt thị phi họa phúc rất rành (Tích nghĩa là rành rõi, cũng có nghĩa là rạch ròi).
5. Lục Ngũ: Quyết phu giao như, uy như, cát.
六曰: 厥孚交如, 威如, 吉.
Lục Ngũ ở quẻ Đại Hữu, chính là một vị nguyên thủ ở trong thiên hạ. Ở vào thì Đại Hữu, xử vào vị chí tôn, trên dưới năm dương tất thảy tín ngưỡng vào mình, hoàn cảnh thuận biết bao, cơ nghiệp lớn biết bao, trì dinh thủ thành thiệt là rất khó.
Sách Đại Học có câu: Dữ quốc nhân giao, chỉ ư tín 與國人交, 止於信. Thầy Mạnh có câu: Chí thành động thiên hạ. Vậy nên xử địa vị Lục Ngũ tất phải đem lòng chí thành giao với bậc đại hiền là Cửu Nhị và hạng người ở chung quanh mình. Đó là căn bản để thu phục nhân tâm.
Tuy nhiên, ở vào thời Đại Hữu, xử vào vị chí tôn, phu giao như là có đạo đức đã đành nhưng cũng phải có thủ đoạn. Nếu chỉ một mực nhu thuận thiệt mà thôi, thời vi mình thống trị quá nhiều người, tất có hạng sinh lòng lờn lã, e mệnh lệnh lúc có bất hành.
Vậy nên cách xử trí lúc ấy, nhu phải pha cương vào, cương phải thêm nhu vào; ân phải kềm pháp vào, pháp phải gia ân vào; có cách uy nghiêm giúp vào, mới được tốt lành.
Tượng viết: Quyết phu giao như, tín dĩ phát chí dã; uy như chi cát, dị nhi vô bị dã.
象曰: 厥孚交如, 信以發志也; 威如之吉, 易以無備也.
Quyết phu giao như là lấy thành tín của một người sẽ phát triển được chí ý cho chúng nhân vậy. Tùng lai, hạ tình bất thông, tội tại thượng nhân chẳng thành tín tiếp với hạ. Thượng nhân lấy thành tín tiếp với hạ, thời hạ nhân cũng phải lấy thành tín thông với thượng, hạ tình có lo uất bế đâu, thế là phát chí.
Uy như chi cát nghĩa là: Muốn cho được cát, cần phải có uy như. Bởi vì đời Đại Hữu là đời thái bình, thái bình thời thường hay khinh dị, nhiều lúc chẳng phòng bị, mà đạo tặc thường phát sinh. Vậy nên phải có uy như.
Chữ uy này thông dụng như chữ binh uy, uy vũ. Binh uy, uy vũ, thảy là giống phòng bị ở đời thái bình.
Dị nhi vô bị nghĩa là sợ quá khinh dị mà chẳng phòng bị.
Chữ bị này theo chữ bị trong Kinh Thư: Duy sự sự, nãi kì hữu bị, hữu bị vô hoạn 惟事事, 乃其有 備, 有備无患. Nghĩa là: việc gì cũng phải có đồ phòng bị sẵn; đã phòng bị sẵn, thời không họa hoạn sinh ra.
Tỉ như chưa rét mà đã lo sắm áo, chưa mưa mà đã lo sắm tơi. Ở thời Đại Hữu là thời đại rất sung sướng. Thịnh chi cực, thời họa hoạn thường hay nhân đó mà sinh ra nên những tài liệu binh hình càng nên ở lúc đó gấp mau chỉnh đổn, tất phải uy như mới được cát.
6. Thượng Cửu: Tự thiên hựu chi, cát vô bất lị.
上九: 自天祐之, 吉, 無不利.
Nghĩa hào này, ở sau Hệ tử đã giải thích rõ.
Đây xin dịch luôn Hệ tử vào: Tử viết: Hựu giả trợ dã, thiên chi sở trợ giả thuận dã; nhân chi sở trợ giả tín dã; lí tín, tư hồ thuận, hựu dĩ thượng hiền dã, thị dĩ tự thiên hựu chi, cát, vô bất lị dã.
子曰: 祐者助也, 天之所助者順也, 人所助者信也; 履信, 思乎順. 又以尚賢也, 是以自天祐之, 佶, 无不利也
Thích nghĩa Hệ tử nói rằng. Hựu nghĩa là giúp đỡ, binh vực. Trời chẳng giúp riêng cho ai, duy ai thuận với đạo trời thời trời giúp cho. Người chẳng riêng giúp cho ai, duy ai có lòng thành tín với người thời người giúp cho. Giày bám lấy thành tín để lòng tín ngưỡng ở lí thuận, lại biết sùng thượng bực hiền hơn mình vậy. Vì vậy nên được tự trời giúp cho mình tốt lành mà không việc gì là chẳng lị.
Nguyên quẻ Đại Hữu này, năm hào dương thuận tòng với một hào âm là hào Ngũ, hào Thượng này ở trên hào Ngũ; Ngũ hư trung là có đức tín, Thượng ở trên Ngũ mà thuận tòng hào Ngũ là lí tín; Thượng có lòng khuất kỉ phục tòng công lí là tư thuận. Nhất tâm theo Lục Ngũ là thượng hiền, vì những đức tốt ấy nên trời với người thảy giúp cho.
Tượng viết: Đại Hữu thượng cát, tự thiên hựu dã.
象曰: 大有上吉, 自天祐之.
Theo thông lệ ở trong Dịch, đến hào Thượng là cuối cùng, Đại Hữu đã đến lúc cùng, lẽ thường thời khó được cát. Duy hào Thượng này thịnh mà chẳng đầy, đầy mà chẳng kiêu, thuận hợp với đạo trời, mà trời giúp cho được cát.
PHỤ CHÚ: Trong bát quái, thời Càn là tôn nhất; trong lục thập tứ quái thời Thái là thịnh nhất, nhưng kể về vận hội vừa hanh thông, nhân sinh thảy hạnh phúc, thiệt không quẻ nào bằng quẻ Đại Hữu. Hào Sơ, hào Nhị, hào Tứ thảy được chữ vô cựu, hào Tam được chữ hanh, hào Ngũ được chữ cát. Đến hào Thượng lại được cát vô bất lị. Kìa như quẻ Càn đến Thượng Cửu thời vì kháng cực mà sinh hổi, quẻ Thái đến Thượng Lục thời vì Thái chung mà mắc lận; có quẻ nào tốt bằng Đại Hữu được đâu. Toàn sáu hào không chữ "hung", "hối", "lận", "lệ" nào cả; chẳng thời đại nào thịnh trị bị phúc được như thế.
Vì cớ sao mà thế rư? Thời vì Đại Hữu là ở sau Đồng Nhân; khi thiên hạ đã đại đồng rồi. "Chính đức", "lị dụng", "hậu sinh", ba việc ấy hoàn toàn viên mãn. Trong triều, không người nào là tiểu nhân; Ngoài dã, không người nào là phỉ loại; người sinh ở thời đại ấy, sung sướng vui vẻ biết chừng nào? Cái mùi hạnh phúc của đại đồng đến đó mới đạt ở cực điểm. Nói tóm lại, Đồng Nhân là tạo nhân cho Đại Hữu, mà Đại Hữu lại kết quả của Đồng Nhân. Thiên thì, nhân sự giúp nhau làm nên là như thế.
15. QUẺ ĐỊA SƠN KHIÊM
Khôn trên; Cấn dưới
Quẻ này là quẻ Địa Sơn Khiêm. Cấn hạ cũng là Nội Cấn.
Khôn thượng cũng là Ngoại Khôn. Khôn là Địa, Cấn là Sơn, nên tên quẻ đọc bằng Địa Sơn Khiêm.
TỰ QUÁI
Tự quái: Đại Hữu giả, bất khả dĩ dinh, cố thụ chi dĩ Khiêm.
序卦: 大有也, 不可以盈, 故受之以謙.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ, sau quẻ Đại Hữu tiếp lấy quẻ Khiêm là vì cớ sao?
Hễ vật lí quá đầy thời nghiêng, nghiêng thời đổ. Vậy nên, đã hữu được đại, thời không nên để cho quá đầy, tất phải khiêm ti mới được. Vậy nên sau quẻ Đại Hữu tiếp lấy quẻ Khiêm. Theo về tượng quẻ, thời Cấn sơn là giống sùng cao mà chịu lún ở dưới Khôn địa, ấy là tượng Khiêm, mà nghĩa Khiêm cũng là thế.
PHỤ CHÚ: Thông lệ của Kinh Dịch: Hễ những quẻ ngũ âm nhất dương, thời lấy nhất dương làm chủ quẻ. Bởi vì quẻ đã năm âm nếu không nhất dương thời thành ra quẻ Thuần Khôn. Vì có nhất dương mới thành ra quẻ Khiêm, nên lấy nhất dương làm chủ. Quẻ đã năm dương nếu không nhất âm thời thành ra quẻ Thuần Càn. Vì có nhất âm, mới thành ra quẻ Tiểu Súc, nên lấy nhất âm làm chủ.
Quẻ Khiêm này cũng là ngũ âm nhất dương nên lấy nhất dương hào Tam làm chủ quẻ, các quẻ khác nữa cũng có thể theo lệ quẻ này mà suy được.
SOÁN TỪ
Khiêm hanh, quân tử hữu chung.
謙亨, 君子有終.
Khiêm nghĩa là ti tốn, chịu nhường sùng cao người khác, mà mình an ở vị khuất lún.
Thầy Tăng Sâm có câu nói rằng: Hữu nhược vô, thực nhược hư, dĩ đa vấn ư quả, dĩ năng vấn ư bất năng 有若无, 實若虚, 已多問於寡, 已能問於不能, nghĩa là: Mình có, mà xem mình như hình không; mình đầy đủ, mà xem mình như hình thiếu kém; lấy mình là trí thức nhiều mà chịu hỏi với người ít; lấy mình là người tài năng, mà chịu hỏi với người bất năng.
Kinh Thư khen vua Vũ có câu rằng: Nhữ duy bất căng, thiên hạ mạc dữ nhữ tranh năng; nhữ duy bất phạt, thiên hạ mạc dữ nhữ tranh công 汝惟不矜, 天下莫譽汝争功. Nghĩa là: Duy mày chẳng khoe tài mày nên thiên hạ chẳng ai tranh tài với mày; duy mày chẳng lòe công mày nên thiên hạ chẳng ai tranh công với mày. Góp cả hai đoạn sách ấy mà thích nghĩa chữ Khiêm hanh vừa đúng lắm. Hễ hay khiêm tốn, tất được hanh thông; đạo đức lo cho tốt, học thức lo cho giàu, mà có đức khiêm như thầy Nhan, công thiệt cao, nghiệp thiệt lớn, mà lại có đức khiêm như vua Vũ là quân tử, mà lại hữu chung.
Sở dĩ được hữu chung là vì đức khiêm lên đến từng nào thời kết quả lại tốt từng ấy, mình tự ti mình mà làm cho người phải tôn mình, mình tự giấu ẩn mình, mà đức nghiệp tự nhiên rõ rệt, ấy mới là hữu chung; nhưng nếu chẳng phải quân tử, thời chẳng làm được như thế. Vì thường tình người ta có tài thường hay kiêu, có công thường hay lòe, khiêm mà lại hữu chung thiệt là khó lám, đức khiêm đó há phải tạm thời khiêm mà được đâu, cũng há phải khiêm một việc mà được đâu, thì thì thấy khiêm, việc việc thấy khiêm, tự tráng chí lão, tự lão chí tử, tự thỉ chí chung, chỉ thấy là khiêm, mà hanh. Thế là quân tử hữu chung.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Khiêm hanh, thiên đạo hạ tế nhi quang minh, địa đạo ti nhi thượng hành. Thiên đạo khuy dinh nhi ích Khiêm, địa đạo biến dinh nhi lưu Khiêm, quỷ thần hại dinh nhi phúc Khiêm, nhân đạo ố dinh nhi hiếu Khiêm. Khiêm tôn nhi quang, ti nhi bất khả du, quân tử chi chung dã.
彖曰: 議亨, 天道下濟而光明, 地道卑而上行. 天道虧盈而益謙, 地道變盈而流謙, 鬼神害盈而福 議, 人道惡盈而好議. 謙尊而光, 卑而不可踰, 君子之終也.
Soán viết: Khiêm hanh, thiên đạo hạ tế nhi quang minh, địa đạo ti nhi thượng hành.
Lời Soán Truyện đây, lấy toàn thể của tạo hóa, chân lí của nhân sự, mà giải thích hai chữ "Khiêm hanh", nghĩa là đạo trời giao tế xuống dưới thấp, ấy là đức Khiêm của trời, vì thế mà phát dục được vạn vật, công tạo hóa ngày càng quang minh, ấy là hanh; đạo đất chịu ở dưới thấp hết thảy vạn vật là đức Khiêm của đất, vì thế mà khí âm thượng hành giao tế với khí trời luôn luôn, ấy là hanh. Hai câu ấy là nói trời đất cũng khiêm mà hanh.
Thiên đạo khuy dinh nhi ích Khiêm.
Chữ thiên đạo ở đây là chỉ về những chốn hữu tượng, tỉ như: Mặt trăng tròn rồi, thời phải khuyết, mặt trời cao rồi, thời phải xế, mặt trời lặn rồi, thời lại lên cao, mặt trăng khuyết hết thời lại dần dần đến tròn. Thế là đã dinh thời làm cho khuy (Dinh: đầy; khuy: bớt). Hễ hay Khiêm thời lại ích cho.
Địa đạo biến dinh nhi lưu Khiêm
Chữ địa đạo đây lại chỉ vào công dụng biến hóa, tỉ như: Cồn cao là dinh, thời chẳng bao lâu mà sụp xuống; vực sâu là Khiêm, thời bao nhiêu nước cũng chảy xuống thêm vào. Núi cao hơn các gò là dinh mà lại thường bị họa sơn băng, ấy là dinh thời phải biến. Bể ở dưới bách xuyên là Khiêm nhưng bao nhiêu nước cũng đổ vào bể, ấy là Khiêm mà chịu được lưu. Lưu nghĩa là chảy vào.
Sách xưa có câu: Cao ngạn vi cốc, thâm cốc vi lăng, nghĩa là bờ cao thường hóa ra vực sâu, hầm sâu thường bồi làm cồn. Đó là chứng được địa đạo biến dinh nhi lưu Khiêm.
Quỷ thần hại dinh nhi phúc Khiêm.
Quỷ thần là dấu thiêng của tạo hóa. Linh khí của âm dương, vẫn vô hình vô tích, nhưng mà vẫn có một lẽ huyền bí, nhân quả tuần hoàn, hễ người nào dinh mãn, thời có họa hại đến ngay. Hễ người nào biết khiêm tốn, thời có phúc mệnh giúp cho. Chữ quỷ thần đây là chỉ vào lí tự nhiên, chẳng phải như tiếng quỷ thần ở trong miệng thế tục.
Nhân đạo ố dinh nhi hiếu Khiêm.
Chữ nhân đạo đây là theo trong đạo người, mà chỉ riêng bằng một loài thường tình. Hễ ai kiêu căng dinh mãn thời người ghét, hễ ai biết khiêm tốn căng trì thời người ham. (Ố nghĩa là ghét; hiếu nghĩa là ham).
Khiêm, tôn nhi quang, ti nhi bất khả du, quân tử chi chung dã.
Câu này là tiếp luôn cả mấy đoạn trên, để giải thích câu quân tử hữu chung, nghĩa là: Hễ có đức Khiêm, thời thiên đạo ích cho, địa đạo lưu cho, quỷ thần phúc cho, nhân tình yêu mến. Mình dầu ở vị tôn mà đạo minh càng sáng rệt, tự xử tuy ti khuất, mà thực thời chẳng ai cao hơn. Thế mới là kết quả của quân tử (Du nghĩa là vượt qua).
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Địa trung hữu sơn, Khiêm. Quân tử dĩ biểu đa ích quả, xứng vật bình thí.
象曰: 地中有山, 謙. 君子以裒多益寡, 稱物平施.
Khôn là Địa, ở quẻ trên; Cấn là Sơn, ở quẻ dưới; Tượng là núi cao mà chịu ở dưới lòng đất nên đặt tên quẻ bằng Khiêm.
Quân tử xem tượng ấy mà biết được lẽ tạo hóa. Hễ cao thời có lẽ phải lún xuống, hễ thấp thời có lẽ phải nâng lên, mới bày đặt ra quy mô trì dinh, tóm bớt chốn nhiều, bù thêm chốn ít, cân xứng các sự vật, theo phân lượng cho nhiều vào ít, lựa cho cân bằng với nhau, mà làm một cách thí dụ cho quân bình. Biều: rút bớt; ích: bù thêm; xứng: cân nhắc; thí: làm ơn cho người; bình thí: nghĩa như chữ quân cấp.
Làm ơn cho người mà chẳng được quân bình, tất đến nỗi kẻ nhiều nhiều quá, kẻ ít ít quá. Vậy nên rút bớt chốn nhiều mà bù thêm chốn ít, cốt khiến cho chốn nào, vật nào cũng được cân bằng. Đó là phương pháp tác dụng của quân tử, mong khiến cho tất thảy loài người trong thế giới không chốn bất bình, kết quả thời nhất thế nhân thảy Khiêm cả. Đấy là từ ý đặc biệt của Đức Khổng, nói cho cực rộng của nghĩa Khiêm, chữ Soán từ với Hào từ không có ý ấy.
PHỤ CHÚ: Lời Tượng Truyện đây, nêu thực hành cho triệt để, thời cũng như học thuyết xã hội ở đời nay. Duy bao giờ người trong đời phần nhiều là quân tử, thời mới làm đến nơi. Vậy nên Tượng Truyện nói quân tử.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Lục: Khiêm Khiêm quân tử, dụng thiệp đai xuyên, cát.
初六: 謙謙君子, 用涉大川, 吉.
Sơ Lục ở thì Khiêm, tính chất nhu thuận, lại ở vị đầu hết quẻ là một hạng người có đức Khiêm mà xử vào vị ti hạ, chính là bậc quân tử khiêm mà lại khiêm nên nói rằng: Khiêm Khiêm quân tử, khiêm mà đến thế, dầu hoàn cảnh có nguy hiểm đến thế nào cũng xông pha được qua, dụng đạo ấy mà thiệp đại xuyên, chắc là vạn vô nhất thất. Tỉ như: Người ta qua đò ngang sang sông, chịu nhường cho người lên trước, mình chịu lên sau, thời khi thuyền vẫn có chậm sau, nhưng đến khi qua bên bờ kia, thời mình lại bước lên bờ trước người ta, Khiêm Khiêm dụng thiệp đại xuyên, chính là lẽ ấy.
PHỤ CHÚ: Các Quái hào hào có chữ lị thiệp đại xuyên, mà đây lại nói dụng thiệp đại xuyên, khác nhau ở chỗ chữ "dụng" với chữ "lị". Chữ "lị" là tài ấy, cảnh ấy xứng nhau; chữ "dụng" là dụng cách ấy mà làm việc ấy.
Dụng thiệp đại xuyên là bảo người ta nên dùng đạo Khiêm mà thiệp đại xuyên.
Tượng viết: Khiêm Khiêm quân tử, ti dĩ tự mục dã.
象曰: 謙謙, 君子卑以自牧也.
Tượng Truyện nói rằng: Quân tử khiêm mà lại tự khiêm là cốt lấy đức khiêm ti để tự dưỡng lấy mình vậy.
Thầy Mạnh có câu: Thiện dưỡng ngô hạo nhiên chi khí 善養吾浩然之氣, nghĩa là: Khéo nuôi khí hạo nhiên của ta. Chữ thiện dưỡng ấy đúng với chữ tự mục ở đây. Hễ người muốn nuôi đạo đức mình, tất phải tự ở khiêm ti mà bước lên. Những hạng người trắng trợn kiêu căng, kết quả chúng phản thân li, chỉ là tự hại. Vậy nên muốn tự mục, tất phải khiêm ti, ti được bao nhiêu, thời lại cao bấy nhiêu.
Lão Tử có câu: Hậu kì thân nhi thân tiên 後其身而身先, nghĩa là: Mình chịu lún thân mình mà ở lại sau, té ra thân mình lại được trước, chính là lẽ ấy.
2. Lục Nhị: Minh Khiêm, trinh cát. 六二: 鳴謙, 貞吉.
Hào Lục vị Nhị là một hạng người nhu thuận, lại đắc trung, đắc chính. Đức Khiêm chất chứa ở bề trong mà tiếng tăm lừng lẫy ở bề ngoài là Minh Khiêm. Nhị có đức Khiêm mà nức ở trong đời, thiệt là có đức trung chính, mà kết quả được tốt lành. Minh nghĩa là điểu minh, kê minh, có tiếng để người ta nghe là nghĩa chữ Minh.
PHỤ CHÚ:
Khiêm là lẽ đáng được cát, vì sao Hào từ lại thêm vào chữ Trinh?
Bởi vì Khiêm với nịnh, bề ngoài thời tương tự, mà tinh thần thời rất khác nhau. Nịnh cũng ti tốn như Khiêm, nhưng vì quyền lợi mình thua kém người nên đối với hạng người hơn mình mà ti tốn. Đó là hạng ngườí siểm nịnh, chính là bất trinh. Khiêm mà trinh thời khác thế: Đạo đức học vấn vẫn hơn người mà tự xử bằng một cách Khiêm, đối với hạng người thua kém mình mà ti tốn. Thế mới là Khiêm trinh.
Sách xưa có câu: Hữu kì thực giả, danh tất quy chi 有其實者, 名必歸之, nghĩa là: Hễ người nào có đức thực ở trong mình, danh dự tất quy vào người ấy. Lục Nhị này Minh Khiêm, chính là lẽ ấy.
Tượng viết: Minh Khiêm trinh cát, trung tâm đắc dã.
象曰: 鳴謙, 貞吉, 中心得也.
Lục Nhị có đức Khiêm mà ảnh hưởng đến trong đời nghe tiếng, đó chẳng phải phấn sức bề ngoài mà được đâu, bởi vì chí thành chứa sẵn ở trong lòng, mà được hiệu quả như thế. Suy cho đến nguyên nhân, vẫn trong tâm đã sẵn tự đắc như thế vậy.
PHỤ CHÚ: Hào từ chữ trinh, tương tự chữ trung là đủ cả nghĩa trung và chính.
3. Cửu Tam: Lao Khiêm, quân tử hữu chung, cát. 九三: 勞謙, 君子有終, 吉.
Cửu Tam có đức dương cương, mà lại làm chủ cho toàn quái, ở trên hết Hạ Quái, năm hào âm thảy tín ngưỡng vào là một hạng người có địa vị, có tài năng, có công lao lớn ở trong thì Khiêm nhưng mà giữ một cách khiêm ti, chẳng lòe loẹt tài mình, chẳng khoe khoang công mình, thiệt là có công lao mà hay giữ đức Khiêm, như bậc người ấy rất đúng với câu quân tử hữu chung ở trên Quái từ. Làm bậc người quân tử khiêm cung tự mục cho đến trọn một đời mình, tất nhiên được tốt lành.
Tượng viết: Lao Khiêm, quân tử, vạn dân phục dã.
象曰: 勞謙君子, 萬民服也.
Lời Tượng Truyện này, Hệ tử giải thích kĩ lắm.
Tử viết: Lao nhi bất phạt, hữu công nhi bất đức, hậu chi chí dã, ngữ dĩ kì công, há nhân giả dã, đức ngôn thịnh, lễ ngôn cung, khiêm dã giả, trí cung dĩ tồn kì vi giả dã.
子曰: 劳而不伐, 有功而不德, 厚之至也, 語以其功, 下人者也, 德言盛, 禮言恭, 謙也者, 致恭 以存其位者也.
Hệ tử nói rằng: gánh việc khó nhọc mà chẳng khoe khoang, có công lớn với đời, mà chẳng nhận làm ơn đức, đức dày đến thế chẳng còn gì hơn.
Hào từ có chữ "Lao Khiêm" là bảo rằng: Lấy công lao mình mà chịu hạ khuất với người đó vậy. Hệ tử lại nói thêm rằng: Kể về đạo đúc thời rất thịnh, kể về lễ mạo thời rất cung kính, kẻ có đức Lao Khiêm mà được vạn dân tín phục cả, chính vì mình hết lòng cung kính của mình, tất nhiên giữ được địa vị của mình đó vậy.
PHỤ CHÚ: Tượng Truyện nói rằng: Lao Khiêm, quân tử, vạn dân phục dã. Hệ tử nói rằng: Trí cung dĩ tồn kì vị. Đó là chỉ nói lẽ tự nhiên, Hễ đã Lao Khiêm, thời vạn dân phục, chứ há phải cầu cho vạn dân phục mà Lao Khiêm đâu; trí cung thời tự nhiên tồn được vị, chứ há phải muốn tồn vị mà trí cung đâu.
Người ở Đông phương như vua Hạ Vũ, người ở Tây phương như ông Hoa Thịnh Đốn, mới đang được Hào từ này.
4. Lục Tứ: Vô bất lị, huy Khiêm.
六四: 無不利, 撝謙.
Lục Tứ có đức nhu thuận lại ở vào vị chính, xử vào thì Khiêm đáng lẽ là không việc gì chẳng lị tiện, nhưng vì địa vị hào Tứ ở trên Cửu Tam là người có công lao, lại ở kề gần Lục Ngũ là bậc nguyên thủ của một nước. Trên thời kiên úc hào Ngũ, dưới lại né nể hào Tam.
Vì địa vị có ý khó khăn, nếu đức Khiêm chẳng đến nơi, e chẳng được toàn mỹ, nên thánh nhân lại răn cho rằng: Tứ hãy nên phát huy đức Khiêm của mình, đức Khiêm phát triển cho đến nơi, mới được tận thiện, tận mỹ.
Huy: phát triển, cũng như nghĩa phát huy.
Tượng viết: Vô bất lị, huy Khiêm, bất vi tắc dã.
象曰: 無不利, 偽謙, 不違則也.
Có đức Khiêm như Lục Tứ mà xử vào địa vị Lục Tứ thời dầu đã vô bất lị, nhưng còn cần phải huy Khiêm, cái đó há phải thái quá Khiêm đâu, chỉ là vừa đúng với pháp tắc vậy.
Vi: trái, cũng có nghĩa là vượt qua. Bất vi tắc: đúng với bổn phận mình, vừa hợp với đạo lí, chẳng phải vượt qua ngoài bổn phận .
5. Lục Ngũ: Bất phú dĩ kì lân, lị dụng xâm phạt, vô bất lị.
六五: 不富以其鄰, 利用侵伐, 無不利.
Hào Lục ở vị Ngũ là nhu thuận lại đắc trung. Ngũ lại là nguyên thủ ở vào vị chí tôn, hay hết lòng khiêm hư mà tín dụng Cửu Tam chính là đắc đạo giả đa trợ 得導者多助. Chẳng cần vì thế lực giàu có, mà tự nhiên thâu phục được láng giềng mình.
Tuy nhiên, ở vị chí tôn, có quyền thống trị cả thiên hạ, nếu chỉ một mực Khiêm nhu mà thôi, thành ra nhu mà chẳng cương, đức mà chẳng uy, chưa đủ tư cách làm một bậc nguyên thủ, thế tất phải cương, nhu tương tế, uy đức tịnh hành.
Nếu có hạng người nào ngoan ngạnh chưa phục, thời cũng phải dùng đến ngón uy vũ mà chinh phục mới xong. Như thế, thời Khiêm mà chẳng phải quá nhu, chí đức mà kiêm cả đại dũng, mới được vô bất lợi.
Tượng viết: Lị dụng xâm phạt, chinh bất phục dã.
象曰: 利用侵伐, 征不服也.
Lục Ngũ ở vào thì Khiêm, mà cần phải lợi dụng xâm phạt, há phải hí công sinh sự đâu, chỉ là chinh phục những người bất phục vậy.
6. Thượng Lục: Minh Khiêm, lị dụng hành sư chinh ấp quốc.
上六: 鳴謙, 利用行師 征邑國.
Thượng Lục ở cuối cùng quẻ Khiêm là Khiêm chi cực. Tính chất nhu thuận, mà xử vào vị Khiêm chi cực là một người chất chứa đức Khiêm quá lâu ngày nên ai cũng nghe được tiếng đức Khiêm, nên cũng nói rằng: Minh Khiêm như Lục Nhị. Đức Khiêm đã trổi tiếng như thế thời người phụ trợ rất nhiều, dùng đạo ấy mà hành sư chắc được thuận lợi, nhưng vì địa vị hào Thượng không được như địa vị hào Ngũ, dẫu có hành sư cũng chỉ vừa chinh phục được ấp quốc mình mà thôi. Ấp quốc nghĩa là những nước ở nơi đô ấp mình, nghĩa cũng như chữ bổn quốc.
Hành sư mà chỉ chinh ấp quốc là không chinh phục được phương xa. Bởi vì chất nhu mà Khiêm đã cực rồi nên sự nghiệp cũng chỉ được như thế.
Tượng viết: Minh Khiêm, chí vị đắc dã, khả dụng hành sư chinh ấp quốc dã.
象曰: 鳴謙, 志未得也, 可用行師征邑國也.
Thượng Lục tuy Minh Khiêm, nhưng chưa lấy gì làm đắc chí vậy, tất phải dụng hành sư để chỉnh đốn ấp quốc của mình vậy. Bởi vì Khiêm thường thuộc về tính chất nhu, Khiêm cực thời thành ra quá nhu, không thể chế phục được những hạng người ngoan ngạnh, tất phải thêm vào thủ đoạn hành sư chinh quốc chứ chẳng phải là một mực quá Khiêm mà thôi.
PHỤ CHÚ: Thánh nhân bàn đạo lí chẳng bao giờ nhất thiên.
Kinh Thư có câu: Mãn chiêu tổn, khiêm thụ ích, nghĩa là: Đầy nhẫy thời sinh ra tổn hại, khiêm hư thời chịu được lợi ích. Khiêm vẫn là tốt, nhưng Kinh Thư có câu: Cao minh nhu khắc, trầm tiềm cương khắc, nghĩa là: Những người đã cao minh, thời sợ thiếu phần nhu nên lấy nhu mà khắc chế vào, những người đã trầm tiềm, thời sơ thiếu phần cương nên lấy cương mà khắc chế vào. Nơi Hào Ngũ, hào Thượng quẻ Khiêm, thánh nhân phải nói xâm phạt hành sư, cũng là ý trầm tiềm cương khắc, chứ chẳng phải bảo người ta xâm phạt lẫn nhau như thế giới hiện giờ đâu. Xin ai chớ nhận lầm chữ xâm phạt, mà đổ lỗi cho thánh nhân.
16. QUẺ LÔI ĐỊA DỰ
Cấn trên; Khôn dưới
Quẻ này là quẻ Lôi Địa Dự.
Khôn hạ cũng là Nội Khôn, Chấn thượng cũng là Ngoại Chấn. Chấn là Lôi, Khôn là Địa, nên tên quẻ đọc bằng Lôi Địa Dự.
TỰ QUÁI
Tự quái: Hữu đại nhi năng khiêm, tất dự, cố thụ chi dĩ Dự.
序卦: 有大而能謙, 必豫, 故受之以常人之情爱則見其是惡非豫.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ, sau quẻ Khiêm tiếp lấy quẻ Dự là vì cớ sao?
Thừa tiếp nghĩa hai quẻ trên, hữu đại rồi mà lại hay khiêm, tất nhiên được an hòa lạc duyệt. Vậy nến sau quẻ Khiêm tiếp lấy quẻ Dự (Dự nghĩa là vui vẻ sung sướng).
Quẻ này Chấn ở trên, Khôn ở dưới; Chấn có tính động, Khôn có tính thuận, hành động mà hòa thuận, có gì vui hơn nên đặt tên quẻ Dự.
Lại thủ nghĩa bằng hai tượng: Sấm ra ở trên đất, khí dương phát động, muôn vật nở sinh cũng là Dự.
SOÁN TỪ
Dự, lị kiến hầu, hành sư. 豫, 利建侯, 行師.
Quẻ này cũng là quẻ ngũ âm, nhất dương, Cửu Tứ là dương cương, ở gần Lục Ngũ là vị chí tôn, mà trên dưới năm âm thảy thuận ứng với Tứ, tượng là một người tài đức xuất chúng, lại gặp thì đắc chí ở thì Dự, dụng làm việc gì, cũng thuận thích cả, mà việc lơn thứ nhất là kiến hầu hành sư cũng thuận lợi lắm.
Kiến hầu nghĩa là dựng đặt tước hầu để quản trị nhân dần trong một nước; hành sư nghĩa là đem quân đi. Nhóm hợp quần chúng thính mệnh lệnh với một ông tưởng cũng in như ngũ âm thuận ứng với nhất dương nên Quái từ nói rằng; Lị kiến hầu hành sư.
PHỤ CHÚ: Các Quái hào nói kiến hầu hành sư có trong ba quẻ: quẻ Truân, quẻ Khiêm với quẻ Dự,. Quẻ Truân có Chấn không Khôn nên chỉ nói kiến hầu, mà không nói hành sư. Quẻ Khiêm có Khôn không Chấn nên chỉ nói hành sư mà không nói kiến hầu. Quẻ Dự góp cả Chấn với Khốn, thời nói góp rằng: Kiến hầu hành sư. Đó chính là thủ bằng tượng quẻ mà khác nhau. Chấn có tượng quân trưởng nên nói kiến hầu. Khôn có tượng đại chúng nên nói hành sư.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Dự, cương ứng nhi chí hành, thuận dĩ động, Dự. Dự thuận dĩ động, cố thiên địa như chi, nhi huống kiến hầu hành sư hồ. Thiên địa dĩ thuận động, cố nhật nguyệt bất quá nhi tứ thì bất thắc; thánh nhân dĩ thuận động, tắc hình phạt thanh nhi dân phục. Dự chi thì nghĩa đại hĩ tai.
彖曰: 豫, 剛應而志行, 順以動, 豫. 豫順以動, 故天地如之, 而况建侯行師乎. 天地以順動; 故日月 不過而四時不忒. 聖人以蝻動則刑罰清而民服. 豫之時義大矣哉.
Soán viết: Dự, cương ứng nhi chí hành, thuận dĩ động Dự.
Đây là lấy thể quẻ, đức quẻ mà thích nghĩa tên quẻ. Quẻ Dự này dương cương được chúng âm ứng theo mà chí dương gặp được dịp tấn hành, thuận với thiên thì, nhân sự mà hành động, như thế thời kết quả được hòa lạc nên đặt tên quẻ bằng Dự.
Dự thuận dĩ động, cố thiên địa như chi, nhi huống kiến hầu hành sư hồ.
Đây là lấy đức quẻ thích nghĩa lời quẻ. Đạo trời đất, lí vạn vật chỉ có lí tự nhiên với đạo đương nhiên. Bây giờ thuận với lí tự nhiên, đạo đương nhiên mà hành động mỗi việc cho nên trời đất cũng nghe theo, huống gì việc kiến hầu hành sư nữa rư.
Thiên địa dĩ thuận động, cố nhật nguyệt bất quá, nhi tứ thì bất thắc; thánh nhân dĩ thuận động, tắc hình phạt thanh nhi dân phục.
Đây lại kể cho tường tận đạo thuận động, mà lại nói rộng thêm.
Trời đất xoay vần nên Tạo Hó, chỉ là thuận với lẽ tự nhiên mà hành động, cho nên mặt trời, mặt trăng phần đêm, phần ngày hành độ chẳng bao giờ sai lầm, Xuân, Hạ, Thu, Đông khí hậu bốn mùa chẳng bao giờ sai suyễn. (Quá: sai lầm; Thắc: sai suyễn).
Sở dĩ được thế, chỉ vì thuận động mà thôi; thánh nhân kinh lí thiên hạ, thông ngự nhân quần, cũng chỉ thích hợp với nhân tình, thuận theo với thì nghĩa, thời hình phạt chẳng phiền phức mà muôn dân phục tùng (Thanh: giản lược).
Sở dĩ được thế cùng chỉ vì thuận động mà thôi.
Dự chi thì nghĩa đại hĩ tai.
Trên kia đã nói: Đạo Dự thuận, nay là ngần nghĩ mà tán tụng thì Dự, nói rằng: Thì nghĩa thuộc về quẻ Dự, lớn lắm vậy thay! (Thì nghĩa là đạo lí ở thì Dự).
PHỤ CHÚ: Lời Soán Truyện tán chữ thì có mười một quẻ: quẻ Dự, quẻ Độn, quẻ Cấn, quẻ Lữ nói thì mà kiêm chữ nghĩa; quẻ Khảm, quẻ Khuê, quẻ Kiển nói thì mà kiêm chữ dụng; quẻ Di, quẻ Đại Quá, quẻ Giải, quẻ Cách, thời chỉ nói thì mà thôi. Lời tán tuy khác nhau, mà ý nghĩa thời in như nhau.
Nói thì nghĩa vẫn có dụng, nói thì dụng cũng có nghĩa, nói thì thời nuốt cả nghĩa với dụng vào trong, nhưng vì, có quẻ thời chú trọng về phần dụng, có quẻ thời chú trọng về phần nghĩa, chẳng qua tùy thì quẻ mà lời có khác nhau. Chúng ta nghiên cứu cho đến ý thánh nhân, thời toàn bộ Dịch cốt yếu nhất là chữ thì. Thánh nhân cừ ra mười một quẻ mà tán rằng: đại hĩ tai, kì dư các quẻ có thể suy được.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Lôì xuất địa phấn, Dự; tiên vương dĩ tác nhạc sùng đức, ân tiến chi thượng đế, dĩ phối tổ khảo.
象曰: 雷出地奮, 豫. 先王以作樂崇德, 殷薦之上帝, 以配祖考.
Chấn lôi ở trên, Khôn địa ở dưới, tượng là sấm ra khỏi mặt đất, khí dương ở dưới đất bùng lên mà thành ra tiếng. Vạn vật nhân lúc ấy hấp lấy dương khí mà nảy nở phát sinh, nên đặt tên quẻ bằng Dự. Tiên vương xem tượng ấy làm ra nhạc để bao sùng công đức, nhạc đã thịnh, công đức cũng thịnh tiến lên thượng đế để phối tổ khảo. (Ân: thịnh; phối: sánh; dĩ phối tổ khảo: đem ông cha mình, phối với thượng đế).
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Lục: Minh Dự, hung. 初六: 鳴豫, 凶.
Chữ dự các hào, với chữ dự ở quẻ nghĩa có khác nhau. Dự ở quẻ, thời nghĩa là hào lạc, cũng như nghĩa chữ dự ở câu: Nhất du nhất dự vi chư hầu độ 一游一豫,為諸侯度 ở sách Mạnh Tử. Chữ dự ở các hào thời nghĩa là tự lạc, như nghĩa chữ dật dự. Vui vẻ với thiên hạ thời là dự hay, một mình sung sướng hớn hở thời là dự dở.
Sơ Lục âm nhu cư hạ, vẫn là tiểu nhân bất trung chính, nhờ ở trên có Cửu Tứ là người có thế lực ở thì Dự. Sơ được ứng với Tứ, Tứ viện trợ cho Sơ, Sơ là tiểu nhân, ỷ thế cường viện, đắc ý kiêu nhân, tự khoe cách vui sướng của mình, kêu sướng cho người ta nghe là thái trạng của tiểu nhân đắc chí, còn gì tốt nữa, kết quả tất nhiên hung.
PHỤ CHÚ: Cũng đồng một chữ Minh, mà Minh Khiêm thời cát, Minh Dự thời hung, há phải đạo lí trái nhau đâu. Kìa thời Khiêm chi cực mà người ta nghe tiếng, ấy là tiếng tự nhiên mà được. Đây thời Dự chi thậm mà khoe khoang cho người ta biết, tiếng đó là tự mình minh lên, tình trạng quân tử tiểu nhân khác nhau nên kết quả cũng khác nhau.
Tượng viết: Sơ Lục minh dự, chí cùng hung dã.
象曰: 初六鳴像, 志窮凶也.
Sơ Lục âm nhu cư hạ, mà khí kiêu chí mạn đã đến cùng cực, dật dự tự minh, hung là phải rồi.
2. Lục Nhị: Giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát.
六二: 介于石, 不終日, 貞吉.
Lục Nhị ở về thì Dự, theo như thường tình thời phần nhiều người mắc họa lạc cực sinh bi. Duy Hào Nhị đắc trung, đắc chính, chẳng đùa với thế tục, tự thủ trong mình bằng một cách kiên cố vững vàng, lại trì kỉ bằng một cách rất nhanh chóng quả quyết, nên Hào từ rất tốt. Xem Hệ tử giải thích càng rõ lắm.
Tử viết: Tri cơ kì thần hồ, quân tử thượng giao bất siểm, hạ giao bất độc, kì tri cơ hồ. Cơ giả động chi vi, cát hung chi tiên kiến giả dã; quân tử kiến cơ nhi tác, bất sỉ chung nhật. Dịch viết: Giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát; giới như thạch yên, ninh dụng chung nhật, đoán khả thức hĩ, quân tử tri vi, tri chương, tri nhu, tri cương, vạn phu chi vương.
子曰: 知幾其神乎, 君子上交不諂, 下交不毒, 其知幾乎. 幾者動之微, 佶凶之先見者也. 君子 見幾而作俟终日. 易曰: 介于石, 不終日, 貞吉; 介如石焉, 寧用終日, 斷可識矣; 君子知彰, 知 柔, 知剛, 萬夫之望.
Hệ tử nói rằng: Ứng sự tiếp vật mà biết được triệu trậm ở khi còn mảy may mới là thần diệu đó rư? Đấng quân tử sở dĩ giao với bậc trên, cung kính mà chẳng đến nỗi siểm nịnh, giao với bậc dưới, thương yêu mà chẳng đến nỗi lờn lã, chắc vì đức trí biết được cơ đó mà. Cơ là nghĩa làm sao? Là cái máy động còn ở lúc mảy may, dầu cát dầu hung chưa rõ mà đã thấy được trước. Quân tử thấy được việc ở khi cơ vi mà ứng phó ngay chẳng chờ trọn ngày.
Lục Nhị quẻ Dự nói rằng: khí tiết mình bền chắc như đá, trí khôn soi việc lại lanh, chẳng chờ đến trọn một ngày mà thấy được chắc chắn, thế là vừa chính vừa lành. Hễ một người trinh tháo đã bền như đá, tinh thần an định, thời óc nghĩ sáng suốt, cần gì phải chờ đến tối ngày, mà phán đoán đã rành rõi rồi.
Thần diệu vậy thay! Là người quân tử biết được việc lúc còn lờ mờ, biết được việc lúc đã rõ rệt, biết được lẽ nên nhu mà nhu, biết được lẽ nên cương mà cương. Thế mới làm được một người cho muốn chúng trông vào (vi: đương lờ mờ; chương: đã rõ rệt).
PHỤ CHÚ:
Sách Đại Học có câu: An nhi hậu năng lự, lự nhi hậu năng đắc
安而后能慮, 慮而 后能得
(An: tinh thần an lặng; Lự: nghĩ tính lo lường).
Tinh thần có an lặng, mà sau mới hay tính toán lo lường. Hay tính toán lo lường mà sau mới hay trúng được sự cơ, ý chính như Hào từ Lục Nhị này. Giới vu thạch là an mà hay lự, bất chung nhật, trinh cát là lự mà hay đắc.
Nhưng xem lời Hệ tử, thời quan hệ nhất là chữ tri. Có tri được vi mới tri được chương, có tri được nhu mới tri được cương. Tri nghĩa là biết, biết được thấu, thời làm được nên. Học thuyết ông Tôn Văn có nói rằng: Tri nan hành dị, mà tục ngữ ta có câu: Khôn chết, dại chết, biết sống. Cái "biết" quan hệ đến như thế, mà biết lại quý nhất là tri cơ. Đương lúc cơ vi mà đã biết trước, mới là chân chính tri, nhưng khó lắm, nếu chẳng phải bậc người thần trí làm sao tri được cơ?
Tri là một vấn để rất khó, mà càng khó hơn nữa là tri cơ, nên Dịch nói rằng: Tri cơ kì thần hồ.
Tượng viết: Bất chung nhật, trinh cát, dĩ trung chính dã.
象曰: 不终日, 貞吉, 以中正也.
Lục Nhị vì có đức trung chính nên thủ tiết kiên tri cơ chóng. Vậy nên hay bất chung nhật mà được trinh cát vậy.
PHỤ CHÚ: Ở về thì Dự chính là lúc quần chúng đùa sự vui chơi, mà trong quẻ thời duy Cửu Tứ nhất dương dụng sự là một người thế lực lớn nhất ở trong đời ấy.
Những hạng người bất trung, bất chính, tất nhiên xu phụ với Cửu Tứ để mua chuộc cái bả vinh hoa. Duy Lục Nhị chẳng thèm ứng với Tứ mà những người phe phái với Tứ Lục Nhị cũng chẳng dây dướng vào, thiệt là một người rất cao thượng, chỉ vì có đức trung chính mới được thế.
Kìa như: Sơ ứng với Tứ thời minh dự mà hung, Tam tỉ với Tứ thời hu dự mà hối, Ngũ kề trên Tứ: thời mắc trinh lấy tật. Chúng ta mới biết rằng: Theo lí Kinh Dịch, thời những bọn xu phụ quyền thế, kết quả ích gì.
3. Lục Tam: Hu Dự, hối trì, hữu hối.
六三: 盱豫, 悔遲, 有悔.
Lục Tam vẫn đã bất trung, bất chính, mà ở trên Tam lại có một người đại quyền thế là Cửu Tứ, Tam vì trọc trùm thân thế của Tứ, mong nhờ Tứ kiếm ăn, lấy làm tự đắc, chỉ ngửa mặt trông lên hào Tứ mong được phú quý mà vui mừng. Như thế tất nhiên kết cục chẳng khỏi ăn năn (Hu nghĩa là dòm lên trên).
Tuy nhiên, lòng ăn năn đó, nếu biết được sớm, còn có lẽ hay, nhưng Tam có biết thế đâu, lôi thôi chậm chạp sụp vào bẫy quyền thế, mà chẳng rút chân ra mau, tất chẳng khỏi được chữ hối.
Tượng viết: Hu Dự, hữu hối, vị bất đáng dã.
象曰: 盱豫有悔, 位不當也.
Hu dự hữu hối là tội tại tư cách Lục Tam, chẳng xử đúng hoàn cảnh vậy (chữ vị này có ý nghĩa như chữ hoàn cảnh).
4. Cửu Tứ: Du Dự, đại hữu đắc, vật nghi, bằng hạp trâm.
九四: 由豫, 大有得, 勿疑, 朋盡簪.
Cửu Tứ làm chủ cho toàn quẻ Dự, tượng là một người chủ động ở trong đời ấy lại thân cận với Ngũ. Ngũ là bậc đại nguyên thủ, hết lòng tín nhiệm Tứ, như thế hoàn cảnh đã thuận, quyền lực lại lớn, người đời ấy nhờ mình mà vui vẻ. (Du dự: xã hội bởi mình mà được dự).
Tứ vì có đức dương cương mà lại gặp thì, gặp thế, chắc đại hữu vi được, phát triển được hoài bão của mình.
Nhưng vì Tứ ở gần vị chí tôn, mà kẻ ở trên mình là người nhu nhược. Tứ lấy một mình đảm đương gánh nặng cho thiên hạ, kẻ ở dưới mình rặt là âm nhu. Tứ thường lo không bạn đồng đức. Hoàn cảnh Tứ như thế, chính là vị nguy nghi. Tuy nhiên, chí lí ở trong thiên hạ, duy chí thành thời thường cảm cách được người, dầu cay co đến thế nào nhưng chí thành cảm cách được lòng người, thời sợ gì thiên hạ không kẻ giúp mình. Vậy nên Hào từ lại răn Tứ rằng: Tứ chỉ nên hết lòng chí thành, chớ để ý hoài nghi. Mình lấy thành cảm người, thời người cũng lấy thành ứng vởi mình, tự nhiên thành ứng khí cầu, có bạn tốt nhóm hợp giúp mình đã đông lại chóng.
(Hạp: hợp; trâm: nhóm mà chóng; hạp cũng có nghĩa là sao chẳng; bằng hạp trâm nghĩa là bầu bạn sao chẳng chóng nhóm rư? Giảng như thế cũng thông).
PHỤ CHÚ: Chữ du dự cũng như chữ du di ở quẻ Di. Người thiên hạ tất thảy du ở mình mà được nuôi, thời là du di, người thiên hạ tất thảy du ở mình mà được hòa duyệt, thời là du dự.
Tượng viết: Du Dự, đại hữu đắc, chí đại hành dã.
冬曰: 由豫, 大有得, 志大行也. Thiên hạ du ở mình mà được sung sướng là chí mình phát triển đƣợc lớn vậy.
5. Lục Ngũ: Trinh tật, hằng bất tử. 六五: 貞疾, 恆不死.
Đương ở thì Dự mà Lục Ngũ âm nhu cư tôn, trầm nịch vào cảnh dật dự, ở dƣới Ngũ có Cửu Tứ dương cương đắc chính, được lòng dân chúng, gánh hết việc thiên hạ. Ngũ tuy ở trên Tứ mà Tứ chuyên hết sự quyền, Ngũ không thể tự lập được, tượng như người mắc bệnh bại già đời, nhưng may nhờ Tứ cũng không quá tay áp bức, mà Ngũ cũng đắc trung nên công việc thiên hạ, chỉ cậy người làm thay cho, mà Ngũ thời được hưởng hư vị mãi mãi.
Tượng như là người có tật bệnh luôn luôn, mà sống dai chẳng chết, nên Hào từ nói rằng: Trinh tật, hằng bất tử.
PHỤ CHÚ: Cửu Tứ chuyên trọng quyền, mà Lục Ngũ thời hưởng nhàn phúc. Theo về sử nước ta, sau đời Lê Trung hưng hơn hai trăm năm, vua Lê nhu nhược, chúa Trịnh chuyên quyền, việc nước hoàn toàn ở trong tay Trịnh mà vua Lê chỉ là một vị hoàng đế ngồi không. Đến ngày Trịnh vong thời Lê mới mất.
Như vua Lê đó, chính là trinh tật, hằng bất tử (Nghĩa chữ trinh ở đây khác mọi nơi; trinh nghĩa là dai dắc).
Tượng viết: Lục Ngũ trinh tật, thừa cương dã; hằng bất tử, trung vị vong dã.
象曰: 六五貞疾, 乘剛也; 恆不死, 中未亡也.
Lục Ngũ sở dĩ trinh tật là vì cưỡi trên hào dương cương là Cửu Tứ vậy. Sở dĩ hằng bất tử là vì vị trung ở hào Ngũ cũng chưa đến nỗi mất vậy.
6. Thượng Lục: Minh Dự thành, hữu du, vô cựu.
上六: 冥豫成, 有渝, 無咎.
Thượng Lục đã âm nhu bất trung, bất chính, mà lại ở thì Dự chi cực nên nỗi trầm mê vào cảnh Dự, chỉ biết vui sướng ở trước mắt mà chẳng biết ngó tới sau lưng, thiệt là một người dự mà mê tối.
Nhưng còn may một tí, hào Thượng là ở về Chấn thể, còn có động cơ mà lại tại dự chi chung. Dự cùng tắc biến nên thánh nhân mong cho thiên thiện cải quá mà nói rằng: Minh Dự tuy đã thành chứng nhưng nếu biết phát phẫn tự cường mà biến đổi nết xấu, thời không đến nỗi tội lỗi.
Tượng viết: Minh Dự, Tại Thượng, hà khả trường dã?
象曰: 冥豫在上, 何可長也.
Minh dự mà ở trên hết quẻ, có lẽ mê mẩn hoài được rư?
PHỤ CHÚ: Chúng ta đọc hết sáu hào quẻ Dự mới biết câu thầy Mạnh nói: Sinh ư ưu hoạn, nhi tử ư an lạc dã, nghĩa là: Người ta thường nhờ ở chốn ưu hoạn mà được sống mà cũng thường vì dật dự đến nỗi phải chết. Dự nghĩa là hoà dự, cũng có nghĩa là dật dự, đáng lẽ là vui vẻ sung sướng, nhưng trong sáu hào, duy Nhị biết vất bỏ cảnh dật dự, tự thủ lấy một cách trinh, thời đƣợc cát, còn Sơ Lục thời minh dự mà hung, Lục Tam thời hu dự mà hối, Cửu Tứ thời tuy du dự mà còn phải nghi, Lục Ngũ thời mắc lấy trinh tật, Thượng Lục thời mắc lấy tội minh dự. Thế mới biết rằng: Cảnh sung sướng vui vẻ chính là cái cửa vào nguy hiểm chông gai. Người xưa có câu: Yến an trậm độc, bất khả hoài dã 燕安鳩毒不可懷也. Nghĩa là: an vui sung sướng chính là thuốc độc rượu trậm hay giết được người, rất không nên say mê vào nó, nên nói rằng: nghĩa quẻ Dự rất lớn vậy thay! Nghĩa chữ Dự lại còn có một nghĩa là dự bị. Nếu biết dự bị thời khỏi mắc họa dật dự. Học Dịch càng cần phải biết nghĩa ấy.
17. QUẺ TRẠCH LÔI TÙY
Đoái trên; Chấn dưới
Quẻ này là quẻ Trạch Lôi Tùy.
Chấn hạ cũng là Nội Chấn, Đoài thượng cũng là Ngoại Đoài. Đoài là Trạch, Chấn là Lôi, nên tên quẻ đọc bằng Trạch Lôi Tùy.
TỰ QUÁI
Tự quái: Dự tất hữu tùy, cố thụ chi dĩ Tùy.
序卦: 豫必有隨, 故受之以隨.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ, sau quẻ Dự tiếp lấy quẻ Tùy là vì cớ sao?
Hễ đã Dự rồi, tất có nhiều người vui theo nên sau quẻ Dự tiếp lấy quẻ Tùy.
Dự nghĩa là vui; Tùy nghĩa là theo.
Quẻ này Đoài trên, Chấn dưới. Đoài là hòa duyệt, Chấn là động; động mà hòa duyệt, tất nhiên nhiều người vui theo.
Lại theo về tượng quẻ: Chấn là trưởng nam, Đoài là thiếu nữ, thiếu nữ duyệt trưởng nam mà theo nhau, thảy là nghĩa chữ Tùy. Lại một tượng nữa: Chấn là Lôi, Đoài là Trạch, Lôi nhức động ở trong Trạch, Trạch tùy mà động theo, cũng là tượng Tùy, góp nghĩa hai tượng như thế nên đặt tên quẻ bằng Tây.
SOÁN TỪ
Tùy, nguyên hanh, lị trinh, vô cựu. 隨元亨利貞, 無咎.
Nghĩa tên quẻ đã thích rõ như trên, nay thích Quái từ chỉ nói đạo Tùy.
Tùy, nguyên nghĩa là theo, tức là tùy tòng, nhưng ở trong đạo Tùy, có hai phương diện: Một phương diện là mình tùy người, một phương diện là người tùy mình.
Chọn được "minh sư", "lương hữu" mà tùy, nghe được "trung ngôn", "trực gián" mà tùy, ấy là Tùy hay.
Nếu mắc lấy tiểu nhân gian ác mà tùy, say lấy lời gian miệng ngọt mà tùy, ấy là Tùy dở.
Tạo nhân tùy có tốt xấu, thời kết quả tùy có lành dữ, nên Quái từ răn cho chúng ta rằng: Người trong thiên hạ chẳng ai tránh khỏi chữ Tùy, sự nghiệp lớn như vua Thuấn, cũng phải bỏ ý kiến mình theo ý kiến người. Đạo đức thịnh như Đức Khổng cũng phải chọn điều lành mà theo.
Nghĩa chữ Tùy lớn đến như thế, nhưng cốt phải tùy cho đắc kì đạo. Nếu tùy bất đắc kì đạo, thời thành ra uốn cong sở học mình mà a dua với đời, chỉ là một bọn quỷ tùy vô lương thời đến nỗi vi tùy mà táng thân, thất tiết, cái cơ tùy lại nguy hiểm đến như thế.
Vậy thời Tùy nên thế nào?
Tất phải kén chọn làm sao cho được một cách đại thiện, tùy mà được đại thiện, tất nhiên mình vì đạo phải mà tùy người, người cũng vì đạo phải mà tùy mình. Nhân với quả tương sinh, mình với người thảy tốt, có việc gì mà chẳng thông thuận đâu, nhưng sở dĩ đại thiện mà hanh, há phải tạm thì nửa đoạn mà được đâu, lại tất phải thành tâm kiên cố, hữu thỉ, hữu chung thời kết quả của Tùy mới được viên mãn.
Như thế, thời Tùy mới không tội lỗi.
PHỤ CHÚ: Đạo lí trong thiên hạ, rất lớn là chữ Tùy, lớn đến như vũ trụ, mà địa cầu, hành tinh phải đi theo nhật luân; nhỏ đến nhất vật, như ong theo con chúa tướng, kiến theo con đầu bầy, chỉ nói giữa một thân người ta, ngũ quan tứ chi tất thảy là tùy theo tâm não, tâm não sai khiến đến đâu thời thể phách theo đến đấy, nhưng chân lí của Tùy chẳng phải là nô lệ, chỉ vì công lí mà tùy chứ chẳng phải vì thế lực mà tùy; vì đại cuộc mà tùy chứ chẳng phải vì tiểu kỉ mà tùy; vì công ích mà tùy chứ chẳng phải vì tư lị mà tùy. Trước khi chưa tùy, phải kén chọn cho tinh, sau khi đã tùy, phải tiết tháo cho chính. Vậy nên Quái từ đã nói: Tùy, nguyên hanh, mà lại nói tất phải lị, trinh mới được vô cựu, quan hệ nhất là chữ trinh. Nếu sở tùy bất trinh, thời tuy nguyên hanh mặc dầu mà cuối cùng cũng chắc có tội lỗi. Chúng ta nhận kĩ ý Quái từ này, thời dầu theo một chủ nghĩa nào, một phe phái nào cũng gọi bằng tùy, mà tùy tất phải trinh mới được.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Tùy cương lai nhi hạ nhu, động nhi duyệt, Tùy. Đại hanh, trinh, vô cựu, nhi thiên hạ tùy thì[14]. Tùy thì chi nghĩa đại hĩ tai.
彖曰: 隨, 剛來而下柔, 動而説, 隨. 大亨貞無咎, 而天下隨時. 随時之義大矣哉.
Soán viết: Tùy cương lai nhi hạ nhu, động nhi duyệt, Tùy.
Quẻ này sở dĩ đặt tên bằng quẻ Tùy là theo bằng Quái biến, hào dương quẻ Chấn xuống ở dưới hết quẻ, nhường cho hào âm quẻ Đoài ở trên hết quẻ, Chấn ở nội, Đoài ở ngoại là động mà hòa duyệt, nên tên quẻ đặt bằng Tùy.
Đại hanh, trinh, vô cựu, nhi thiên hạ tùy thì.
Tùy mà đại hanh lại trinh thời vô cựu mà thiên hạ tất thảy vui theo.
Xưa nay việc trong thiên hạ thường có một người đề xướng lên chủ nghĩa gì, học thuyết gì mà thiên hạ cũng chỉ vì thì đã đến thế nên mới theo. Tỉ như, chính thể quân chủ lập hiến hoặc chính thể dân chủ, học thuyết quốc gia hay xã hội thường có một người thủ xướng mà muôn ngàn người họa theo cũng chỉ vì đúng thì mà thôi.
Nêu chưa có họa quân chủ chuyên chế như đời Lộ Địch thập lục[15]mà xướng dân chủ, hoặc nếu chưa có họa tư bản chiến tranh như cuối thế kỉ thập cửu mà xướng xã hội học thuyết thời có ai theo đâu. Vậy biết chữ Thiên hạ tùy thì rất hay.
Tùy thì chi nghĩa đại hĩ tai.
Tóm xem mấy câu trên đây mà ngẫm nghĩ cho sâu, thời biết nghĩa chữ thì ở quẻ Tùy là lớn lắm vậy thay.
PHỤ CHÚ: Đức Khổng thích Quái từ quẻ Tùy mà kết thúc lấy chữ thì, lại tán rằng: Đại hỉ tai, ý tứ vừa sâu vừa tinh lắm.
Từ thiên đạo đến nhân sự chẳng bao giờ vượt khỏi chữ thì. Nhà lầu, áo gấm mà chế tạo ra ở đời dã cư huyệt xử bế quan tỏa cảng mà giữ chặt ở đời hoàn hải giao thông, thiệt không thể nào làm được. Bởi vì thì chưa đến, dầu thánh triết cũng không thể cưỡng bắt thì theo ý riêng mình. Thì đã đến rồi, dầu dung ngu cũng có thể đua thì cạnh tấn. Vậy nên, ở trong nghĩa chữ Tùy lại quý trọng nhất là Tùy thì.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Trạch trung hữu lôi, Tùy. Quân tử dĩ hướng hối nhập yến tức.
象曰: 澤中有雷, 隨, 君子以嚮晦入宴息.
Đoài thượng, Chấn hạ là tượng ở giữa lòng chằm có tiếng sấm, nước chằm theo tiếng sấm mà động, ấy là tượng quẻ Tùy. Quân tử xem tượng ấy tùy thì mà động tĩnh, thì nên động mà động là ban ngày; thì nên tĩnh mà tĩnh là ban đêm, hướng buổi đêm thời vào an nghỉ, cũng là một việc tùy thì của quân tử.
(Hướng hối: tới buổi đêm; Yến tức: an nghỉ).
Hướng hối nhập yến tức là chứng vào một việc rất thiển cận, để cho học giả suy rộng ra.
PHỤ CHÚ: Trong Dịch thủ tượng theo Lôi mà quân tử bắt chước Lôi có năm quẻ: quẻ Dự là lôi xuất địa phấn thời bắt chước Lôi mà tác nhạc sùng đức. Quẻ Đại Tráng là lôi tại thiên thượng thời bắt chước Lôi mà phi lễ phất lí, quẻ Vô Vọng là thiên hạ lôi hành thời bắt chước Lôi mà đối thì dục vật, đó là bắt chước cách động của Lôi; quẻ Phục là Lôi tại địa trung thời bắt chước Lôi mà bế quan tức lự, quẻ Tùy là trạch trung hữu lôi thời bắt chước Lôi mà hướng hối yến tức, đó là bắt chước cách tĩnh của Lôi.
Tục ngữ thường nói: „Tháng Mười sấm nạp, tháng Chạp sấm ra". Thế là Lôi vẫn có khi động, khi tĩnh. Xuân, Hạ thời Lôi phát thanh, Thu, Đông thời Lôi thu thanh, cũng là một công dụng, thuộc về đạo trời, quân tử động, tĩnh tùy thì, cũng là bắt chước đạo trời vậy.
Còn có một nghĩa: Quân tử tự cường bất tức, cớ sao lại nói yến tức, chẳng là mâu thuẫn hay sao? Không, không, bất tức là kiêm cả tinh thần và xác thịt nên thuộc về ban ngày thời chẳng nghỉ. Yến tức là an nghỉ cái xác thịt, để bồi dưỡng phần khỏe bằng tinh thần. Danh tuy yến tức mà kì thực là bất tức, nuôi tinh thần bằng buổi đêm, chính là một cách tự cường của quân tử. Thử xem như Ông Chu Công "tọa dĩ đãi đán", Đức Khổng "chung dạ bất tẩm, dĩ tư". Thế là xác thịt tuy nghỉ mà tinh thần có bao giờ nghỉ đâu, chỉ duy muốn cho tinh thần khỏe mạnh tất cũng có khi phải nghỉ xác thịt; hướng hối, nhập yến tức, chính là nghĩa ấy.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Cửu: Quan hữu du, trinh cát, xuất môn giao hữu công.
初九: 官有渝, 貞吉, 出門交有功.
Sơ vẫn là hào dương, đáng lẽ làm chủ cho âm mà âm thì phải tùy dương. Bây giờ Sơ Cửu lấy mình là dương mà trở lại tùy hai âm. Thế là Sơ vẫn làm chủ mà có lúc biến dịch, e chẳng được tốt, nhưng xử thì buổi Tùy, lại cốt tùy thì biến dịch, chỉ sợ cách biến dịch chẳng được chính mà thôi. Nếu biến dịch mà được chính, ấy là Tùy mà trinh, tất được tốt lành. (Quan: chủ; du: biến).
Theo lệ Kinh Dịch, dương làm chủ cho âm nên gọi bằng quan mà nghĩa làm chủ.
Tuy nhiên, thường tình người ta hễ đã có Tùy, thường dây dướng vào vòng tư ái, tức là tùy nhi bất trinh, đã bất trinh làm sao được cát, nên tất phải đoạn tuyệt nhất thiết tư ái, tượng như ra ngoài cửa mà giao kết với người thời mới có thành công.
Xuất môn giao nghĩa như câu Đồng Nhân vu môn, ở quẻ Đồng Nhân: không giao kết bằng tư tinh mà chỉ giao kết bằng chính lí thời mới được việc.
PHỤ CHÚ: Thích Hào từ này, Tượng Truyện có một đoạn nghĩa lí rất hay, tuy chẳng theo hào nghĩa, nhưng cũng biên ra để cống hiến độc giả.
Thường nhân chi tình, ái chi, tắc kiến kì thị; ố chi, tắc kiến kì phi, cố thê noa chi ngôn, tuy thất nhi đa tòng, sở tằng chi ngôn, tuy thiện vi ác dã.
常人之情, 爱之則見其是, 惡之則見其非; 故妻弩之言, 雖失而多從; 所憎之言, 雖善而爲惡 也.
Nghĩa là: Tình của hạng người dung thường: Người mình đã yêu thời chỉ thấy nó là phải, người minh đã ghét thời chỉ thấy nó là trái. Vậy nên lời nói của vợ con mình, tuy lầm lỗi mà hay nghe theo. Lời nói của người mình ghét, tuy có lành mà cũng cho là xấu vậy.
Câu thơ của cụ Uy Viễn cũng nói rằng:
Lúc ghét dệt thêu ngay hóa vậy,
Khi ưa tô vẽ méo nên tròn.
Đó rặt là Tùy mà chẳng được chính, Tùy mà được chính, có đến nỗi bất cát đâu.
Tượng viết: Quan hữu du, tòng chinh, cát dã. Xuất môn giao hữu công, bất thất dã.
象曰: 官有渝, 從正吉也, 出門交有功, 不失也.
Quan hữu du, nhưng mà theo được chính thời tốt lành vậy (chính là nghĩa chữ trinh). Xuất môn giao, hữu công, là Tùy được chính thời chẳng đến nỗi thất bại vậy.
2. Lục Nhị: Hệ tiểu tử, thất trượng phu.
六二: 係小子, 失丈夫.
Lục Nhị vẫn có chính ứng của mình là Cửu Ngũ, Ngũ dương cương, trung chính, đích đáng là một vị trượng phu, nhưng vì Nhị thân cận với Sơ, Nhị đã tính chất âm nhu, giữ mình chẳng được bền vững mà lại xử về thì Tùy, gần đâu tùy đấy, lân la ríu rít với Sơ, nốt tùy quách Sơ, té ra hụt mất Cửu Ngũ là chính ứng của mình, ấy là hệ tiểu tử mà mất trượng phu đó vậy. (Tiểu tử, chỉ hào Sơ dương; trượng phu, chỉ hào Ngũ dương; hệ nghĩa là bìu ríu, ríu rít).
PHỤ CHÚ: Dương cương biết theo đạo lí chính mà tùy người thời gọi bằng tùy, âm nhu chỉ theo tư tình mà tùy người thời gọi bằng hệ. Vậy nên trong quẻ, ba hào dương không chữ hệ, ba hào âm rặt nói chữ hệ.
Tượng viết: Hệ tiểu tử, phất kiêm dự dã.
象曰: 係小子, 弗兼與也.
Lục Nhị đã bìu ríu lấy Sơ, tất nhiên phải thất Ngũ, không lẽ được cả hai bên. Nguyên lai đạo Tùy, hoặc mình tùy người, hoặc người tùy mình, thân người hiền tất viễn người gian, theo lối trái thời mất lối phải, không lẽ lưỡng tùy được, nên nói rằng: Phất kiêm dự (Kiêm dự: tùy cả hai bên).
3. Lục Tam, hệ trượng phu, thất tiểu tử, tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh.
六三: 係丈夫, 失小子, 隨有求得,利 居貞.
Lục Tam tính chất cũng như Lục Nhị, âm nhu không độc lập nổi, đụng ai thân cận thời tùy ngay, nhưng Tam này may nhờ địa vị mình tiếp cận với Cửu Tứ, Tứ có tài dương cương, lại ở trên mình, chính là một vị trượng phu. Tam vì thân cận với Tứ, mà bìu ríu theo Tứ, tuy ở dưới có Sơ cũng là dương cương, nhưng Tam đã tùy Tứ mà bỏ Sơ nên Sơ cũng mất lòng với Tam. Thế là hệ trượng phu, thất tiểu tử.
('Trượng phu, chỉ hào Cửu Tứ; tiểu tử chỉ hào Sơ Cửu).
Vì cớ thân cận mà tùy, Tam vẫn chẳng khác gì Nhị, nhưng Nhị thời bỏ chính mà theo tà, Tam thời bỏ dữ mà theo lành; tùy như mà Tam là tùy cách khôn khéo, nên nó cần gì với Tứ, Tứ cũng cung cấp.
Tuy nhiên, hễ mình có sở cầu với người mà người cho mình được cũng chưa phải là thập phần chính đáng. Nếu chẳng khéo thời thành ra xu thế trục lị nên thánh nhân lại răn cho rằng: Tam đã hữu cầu mà đắc thời Tam nên tự xử bằng một cách chính đáng; tùy mà được chánh đáng thời dầu có hệ, cũng chẳng đến nỗi xấu gì.
PHỤ CHÚ: Lục Nhị, Lục Tam thảy hữu sở hệ, nhưng Lục Nhị chỉ có thất mà chẳng đắc, Lục Tam thời hữu sở thất mà cũng hữu sở đắc. Bởi vì thất của Lục Nhị là thất trượng phu, chính là sở đang đắc mà trở lại thất, còn có đắc gì? Thất của Lục Tam là thất tiểu tử, thất phía dở, tức là đắc phía hay.
Tượng viết: Hệ trượng phu, chí xả hạ dã. 象曰: 係丈夫, 志舍下也.
Lục Tam biết hệ với trượng phu là chí ý của Tam bỏ phía ti hạ mà theo phía cao thƣợng vậy. Tùy như thế cũng đúng đạo phải.
4. Cửu Tứ: Tùy hữu hoạch, trinh hung, hữu phu, tại đạo, dĩ minh, hà cựu.
九四: 隨有獲, 貞凶. 有孚在道, 以明, 何咎.
Cửu Tứ sẵn có tài dương cương, xử được vị rất tôn ở trong bọn nhân thần, trên có Cửu Ngũ đồng đức với mình, mà hết sức tùy mình. Ở thì Tùy mà có tài lại có vị, tất nhiên thiên hạ theo về với minh cả thảy, sở đắc thiệt rất lớn. (Hữu hoạch, được lòng cả thiên hạ).
Tuy nhiên, công cái thiên hạ giả bất thưởng, nghĩa là công đã hơn cả thiên hạ, thời chẳng biết lấy gì thưởng; uy chấn chúa giả thân nguy, nghĩa là uy danh đã kinh động đến chúa, thời e thân minh nguy, Cửu Tứ đã lập công bất thưởng, đội uy chấn chúa, xử cảnh như thế nguy nghi biết chừng nào.
Tuy theo về nghĩa lí vẫn là trinh, nhưng theo về sự thế thời có lẽ hung.
Quân tử xử địa vị ấy, hoàn cảnh ấy, thời nên thế nào, tất phải có một phương pháp hoàn thiện, chất chứa lòng chí thành ở phía trong, trên cảm cách được người nguyên thủ, dưới thuyết phục được cả nhân dân, hành động những việc gì, cử chỉ những cách gì, tất thảy trúng với đạo lí. Khi việc nước còn rắc rối thời tận tụy cúc cung, khi việc nước đã an bình thời công thành thân thối. Lấy đức minh triết mà ứng phó với cuộc đời. Như thế thời vị cực cao mà chẳng hiềm nghi bằng bức thượng, thế cực trọng mà chẳng tội lỗi bằng chuyên quyền, trên yêu mà dưới theo, còn có tội lỗi gì.
PHỤ CHÚ: Như Hào từ Cửu Tứ này, xử vào địa vị khả cát khả hung, chẳng phải bậc thánh nhân đại hiền, thiệt là khó xử, hữu phu là đức Tín, tại đạo là đức Nhân, dĩ minh là đức Trí, đủ ba đức ấy mới xử được địa vị hào này.
Xem sử nước ta, như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mới đương được hào này. Khi quân Mông Cổ ba lần vào đánh nước ta, Vua thời thiên đô, Thái Thượng Hoàng phải chạy vào Thanh Hóa, bao nhiêu quyền quân quốc, phó thác vào một tay Đại Vương, nhân tâm lúc bấy giờ nghi cho Ngài có thể chuyên quyền cướp nước, nhưng Ngài vẫn một lòng trung với nước, thù với giặc, đánh được quân Mông Cổ xong thời rước Vua với Thái Thượng Hoàng về. Nước đã nguy, nhờ Đại Vương mà được an; Vua đã bỏ ngôi, nhờ Đại Vương mà được phục. Đến khi công cao hơn bổn bể, uy chấn trong một đời mà Ngài thỉ chung giữ phận nhân thần, dầu Vương Phụ khuyên Ngài lấy nước mà Ngài không nghe lời, dầu vua Trần cho Ngài được quyền phong tước mà Ngài chung thân vẫn chẳng cho ai một đạo bằng. Như thế là hữu phu, tại đạo, dĩ minh.
Vậy nên, uy quyền thiệt trọng mà nhân chúa chẳng nghi, công danh thiệt cao mà đời chẳng ghen ghét, chẳng đúng Hào từ quẻ Tùy hay sao?
Tượng viết: Tùy hữu hoạch, kì nghĩa hung dã, hữu phu tại đạo, minh công dã. 象曰: 隨有獲, 其義凶也, 有孚在道, 明功也.
Tùy hữu hoạch là theo như nghĩa quẻ thời cương hạ với nhu, mà Cửu Tứ thời mình là dương cương mà được âm nhu tùy mình, trái với nghĩa quẻ, cũng có lẽ hung vậy. Nhưng vì hữu phu tại đạo thời kết quả được vô cựu, đó là công của đức minh triết vậy.
5. Cửu Ngũ: Phu vu gia, cát. 九五: 孚于嘉, 吉.
Cửu Ngũ dương cương cư tôn, đắc trung, đắc chính, hạ ứng với Lục Nhị cũng trung chính, ấy là tín thành với đạo đại thiện. Tùy thiện mà gốc ở chí thành là đạo rất tốt ở trong thì Tùy vậy.
Tượng viết: Phu vu gia, cát, vị chính trung dã.
象曰: 孚于嘉, 吉, 位正中也.
Cửu Ngũ sở dĩ được phu vu gia, cát là vì ở tôn vị mà có đức chính trung vậy. Chính trung kiêm tán cho Lục Nhị, hai bên thảy chính trung mà theo nhau, còn gì tốt hơn.
6. Thượng Lục: Câu hệ chi, nãi tòng duy chi, vương dụng hanh vu Tây Sơn,
上六: 拘係之, 乃從維之, 王用亨于西山.
Thượng Lục ở cuối cùng quẻ Tùy là Tùy chi cực mà cũng là đạo Tùy đạt ở cực điểm. Tượng là lòng người tùy mình cố kết triền miên mà không thế rời nhau được, in như đã nằm tríu lại còn theo mà chẳng trói. (Câu hệ: bắt giữ; duy: dằng trói).
Tùy mà cố kết như thế, nhân tâm đã kiên cố, đại nghiệp tất cũng phải nên.
Ngày xưa, vua Thái Vương lánh nạn giặc địch bỏ ấp Mân chạy sang Kì Sơn (Kì Sơn tức Tây Sơn). Người ấp Mân, già trẻ trai gái dìu dắt nhau đi theo Thái Vương như người dắt nhau đi chợ. Nhân tâm tùy mình cố kết đến như thế, Thái Vương dùng đạo ấy mới hanh thịnh nghiệp vương ở Tây Sơn.
PHỤ CHÚ: Trong quẻ Tùy ba hào có chữ hệ. Duy chữ hệ ở Thượng Lục khác với hệ ở Lục Nhị, Lục Tam. Hai hào kia là hệ vì tư tình. Thượng Lục là hệ theo lí tự nhiên.
Thầy Mạnh có câu: Dân chi quy nhân, do thủy chi tựu hạ dã 民之歸人由水之就下也, nghĩa là: Lòng dân tất nhiên theo về người có đức nhân, in như nước tất nhiên chảy xuống chốn thấp.
Chữ hệ ở hào Thượng là theo lí tự nhiên như thế nên kết quả được hanh.
Tượng viết: Câu hệ chi, thượng cùng dã.
象曰: 拘係之, 上窮也.
Hào Thượng sở dĩ có lời câu hệ chi bởi vì Tùy mà đến hào Thượng là đạo Tùy đã đạt ở cực điểm rồi vậy. (Cùng: cực, cũng có nghĩa là tột mực).
PHỤ CHÚ: Theo thông lệ ở các quẻ, hễ đã cùng thời biến. Lệ như, hào Thượng quẻ Càn, dương cực thời mắc chữ "Kháng”; hào Thượng quẻ Thái thịnh cực thời mắc chữ "Loạn”; hào Thượng quẻ Dự, vui cực thời mắc chữ "Minh”; chỉ duy hào Thượng quẻ Tùy, Tùy cực thời được chữ "Hanh”. Đó là một lẽ biến hóa ở trong Dịch lí. Vật cực tắc phản, lạc cực sinh bi. Chỉ duy Bĩ cực thời mừng cho gần Thái, Truân cực thời mừng cho gần Thông. Hễ bao nhiêu hoàn cảnh tốt thời chẳng muốn cho cực, bao nhiêu hoàn cảnh xấu thời lại muốn cho mau cực. Vì đã cực thời cát hóa ra hung, hung hóa ra cát là chỉ theo hoàn cảnh mà nói thời thế.
Nhưng đến nghĩa chữ Tùy thời chẳng nói hoàn cảnh mà chỉ nói tâm lí, tâm lí mình vui theo đâu thời Tùy đó. Vợ theo chồng, tớ theo thầy, quân lính theo tướng, cho đến người một đảng theo đảng khôi, người một nước theo quốc trưởng, thảy là nghĩa chữ Tùy mà lại muốn cho Tùy đến cùng. Nếu Tùy chẳng đến cùng cực thời thành ra tớ đến giữa đường mà bỏ thầy, quân đến giữa trận mà bỏ tướng, v.v.
Vì vậy, quẻ Tùy đến hào Thượng thời Hào từ có chữ hanh mà Tượng Truyện cũng lấy chữ thượng cùng mà thích nghĩa chữ hanh.
Chúng ta phải biết rằng: Khi chưa Tùy phải hết sức cẩn thận lựa kén mà sau khi đã Tùy rồi, tất phải tự thỉ chí chung.
Sử đời xưa, năm trăm nghĩa sĩ chịu chết theo Điển Hoành mà chẳng chịu về Hán, ba vạn nghĩa dân ở thành Kim Lăng, cam tâm chịu chết với Lý Tú Thành, không một người chịu hàng quân Mãn Thanh, chỉ là Tùy vì tâm lí mà chẳng Tùy vì hoàn cảnh, nên Tùy đến cùng cực mới là phải đạo. Đó là một biến lệ ở trong Dịch lí vậy. Học giả nên lưu ý.
18. QUẺ SƠN PHONG CỔ
Cấn trên; Tốn dưới
Quẻ này là quẻ Sơn Phong Cổ.
Tốn hạ cũng là Nội Tốn, Cấn thượng cũng là Ngoại Cấn. Cấn vi Sơn, Tốn vi Phong, nên tên quẻ đọc bằng Sơn Phong Cổ.
TỰ QUÁI
Tự quái: Dĩ hỉ tùy nhân giả, tất hữu sự, cố thụ chi dĩ Cổ, Cổ giả sự dã.
序卦: 以喜隨人也, 必有事, 故受之以蠱. 蠱者事也.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Tùy tiếp lấy quẻ Cổ là vì cớ sao?
Tiếp liền nghĩa hai quẻ trước: Dự là vui mừng, Tùy là theo, vui mừng theo người tất có công việc làm. Vậy nên sau quẻ Dự, quẻ Tùy, tiếp lấy quẻ Cổ.
Cổ có hai nghĩa: Một nghĩa là hoại loạn, một nghĩa là có công việc. Vì đã hoại loạn mà lo sửa sang, đã sửa sang tất nhiên có công việc, nên nói tắt rằng: Cổ giả sự dã. (Cổ: việc).
Khi vật bỏ lâu ngày chẳng dùng thời sâu mọt sinh, gọi bằng trùng cổ; người say đắm tửu sắc mà tật bệnh sinh, gọi bằng bệnh cổ. Thiên hạ trị an lâu ngày mà tệ hại sinh, gọi bằng cổ hoại.
Theo về tượng quẻ, gió ở dưới núi, gió đụng lấy núi mà quay vấn lại; gái ở dưới trai, gái vì say trai mà mê hoặc, thảy là tượng cổ loạn. Đã cổ loạn thời không thể ngồi yên, tất phải có việc nên đặt tên quẻ bằng Cổ.
SOÁN TỪ
Cổ, nguyên hanh, lợi thiệp đại xuyên, tiên Giáp tam nhật, hậu Giáp tam nhật.
蠱元亨, 利涉大川, 先甲三日, 後甲三日.
Theo mặt chữ Cổ, chữ mãnh ở dưới, ba chữ trùng ở trên. Mãnh nghĩa là đồ giống. Một đồ giống gì mà chứa trữ đến ba loại sâu là hoại loạn đến cực điểm, loạn cực tất phải trị là lẽ tự nhiên. Vì vậy, Quái từ chẳng thủ nghĩa bằng chữ Cổ mà thủ nghĩa bằng tài trì Cổ.
Việc đã hoại loạn rồi mà chỉnh đốn, sửa sang lại cho được trị, ấy là tài trì Cổ; có tài trì Cổ thời làm nên thế đạo được thiên hanh thông.
Tuy nhiên, sửa sang lúc hoại loạn, phá biết bao chông gai, dẹp biết bao sóng gió, có lẽ nào khoan thai bằng phẳng mà làm được, nên tất phải xông nguy hiểm, trải gian nan, mới trì xong Cổ, nên nói rằng: Lị thiệp đại xuyên.
Tuy nhiên, công việc trì Cổ há phải gan mạo hiểm, hăng hái trắng trợn mà xong đâu, tất phải có kế hoạch, có quy mô, tính toán cho thiệt sâu xa, sắp đặt cho có thứ tự.
Bây giờ lấy số thập Can mà giả định làm ra kế hoạch. Tỉ như: Ngày bắt tay làm việc, chính là ngày Giáp thời phải suy nguyên đến trước Giáp ba ngày. Ba ngày trước Giáp là ngày Tân, Tân nghĩa là đổi cũ sang mới. Thử tính nghĩ việc đổi cũ sang mới thời nên thế nào? Lại phải tính toan đến sau Giáp ba ngày. Ba ngày sau Giáp là ngày Đinh, Đinh nghĩa là đinh ninh. Đinh ninh tính nghĩ cho đến đoạn sau thời nên thế nào?
Nói tóm lại, tiên Giáp là truy cứu cớ sở dĩ nhiên mà sắp đặt một cách mới cho đúng; hậu Giáp là ngày tính toan cho đến tương lai mà sắp đặt một cách phòng bị.
Thánh hiền, hào kiệt sở dĩ phá hoại được cũ mà kiến thiết được mới chỉ vi tâm tư cơ, kế hoạch tường. Xét hết bệnh chứng từ lúc trước mà lập phương cho hay là tiên Giáp. Nghĩ cách bồi bổ ở lúc sau mà chứa thuốc cho sẵn là hậu Giáp.
Công việc trì Cổ mà được như thế thời nguyên hanh có khó gì.
PHỤ CHÚ: Cổ là một thời đại rất xấu mà cớ sao Quái từ lại được hai chữ nguyên hanh?
Tùng lai, thiên hạ không lo vì thời đại loạn mà chỉ lo vì không người bát loạn, nhân sinh không lo vì cảnh ngộ hiểm mà chỉ lo vì không tài tế hiểm. Nếu những người trì Cổ đó gan lớn mà kiêm cả tiểu tâm, tài cao mà kiêm cả viễn lự thời thì loạn chính là đường mở ra trị, cảnh hiểm chính là lối đưa đến bình. Quái từ đã nói rằng lị thiệp đại xuyên, lại răn cho tiên Giáp, hậu Giáp, dạy người ta cách trì cổ, thiệt chẳng sót một tí gì.
Nếu chỉ có tài thiệp đại xuyên mà không kế hoạch tiên Giáp, hậu Giáp, hoặc có kê hoạch tiên Giáp, hậu Giáp mà không gan thiệp đại xuyên thời thảy chẳng phải là tài trì cổ, cổ làm gì mà nguyên hanh được.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Cổ cương thượng nhi nhu hạ, tốn nhi chỉ, Cổ. Cổ, nguyên hanh, nhi thiên hạ tri dã. Lị thiệp đại xuyên, vãng hữu sự dã. Tiên Giáp tam nhật, hậu Giáp tam nhật, chung tắc hữu thỉ, thiên hành dã.
彖曰: 蠱剛上而柔下, 巽而止, 蠱. 蠱元亨, 而天下治也. 利涉大川, 往有事也. 先曱三日, 後曱 三日, 終則有始, 天行也.
Soán viết: Cổ cương thượng nhi nhu hạ, tốn nhi chỉ, Cổ.
Quẻ Cổ này, nguyên hào dương quẻ Càn, lên làm Thượng Cửu: nguyên hào âm quẻ Khôn xuống làm Sơ Lục. Theo về Quái biến thời như thế thành ra người ở trên chỉ một mực cương mà người dưới chỉ một mực nhu, cương thời hết sức đè nén, nhu thời hết sức thừa thuận, còn thành được sự nghiệp gì? Vả lại, theo như đức quẻ, Tốn hạ là thừa thuận, Cấn thượng là đình chỉ. Người ở dưới chỉ thừa thuận, người ở trên chỉ ngồi im còn làm nên việc gì? Cứ như thế mãi, tất nhiên hoại loạn. Vì thế nên đặt tên quẻ bằng Cổ.
Cổ, nguyên hanh, nhi thiên hạ trị dã. Lị thiệp đại xuyên, vãng hữu sự dã. Tiên Giáp tam nhật, hậu Giáp tam nhật, chung tắc hữu thì, thiên hành dã.
Từ đây sắp xuống, thích nghĩa lời quẻ, Cổ tuy là hoại loạn, nhưng có hoại mới đẻ ra thành, có loạn mới sinh ra trị. Nếu có tài trì Cổ thời nguyên hanh mà thiên hạ trị cũng chẳng khó gì vậy.
Lí tưởng vẫn như thế, nhưng có sự thực mới làm nên được. Đương lúc bây giờ tất phải có người chí khí, tài năng, can đảm, mưu lược, dầu nguy hiểm gian nan mà cứ vững vàng trực tiến nên nói rằng: Lị thiệp đại xuyên.
Nhưng lại phải có trí khôn cho sâu xa, xem xét cho kĩ càng, chứng cứ ở đạo trời mà suy nghĩ đến việc người. Hễ đã có chung, tất phải có thỉ, hoại loạn là việc đã chung, nhưng phải suy cứu cho đến cớ sở dĩ nhiên mà lo một cách chỉnh đốn canh tân, hiện tại là lúc thỉ, tất phải tính trước lẽ tất nhiên ở tương lai mà lo sắm sẵn cách bổ cứu. Đó là bắt chước vận trời mà tính suốt cả chung cả thỉ, nên nói rằng: Tiên Giáp tam nhật, hậu Giáp tam nhật.
PHỤ CHÚ: Bốn chữ chung tắc hữu thỉ hàm súc ý nghĩa rất nhiều. Hiện tại Cổ là chung mà xét đến lúc đầu sở dĩ Cổ là thỉ. Ấy là thăm bệnh nguyên mà tìm thuốc trị bệnh, đúng với câu: Tiên Giáp tam nhật. Hiện tại canh tân là thỉ mà phải nghĩ đến lúc cuối cùng ra thế nào là chung, ấy là bệnh hậu mà tìm thuốc bổ nguyên, đúng với câu: Hậu Giáp tam nhật. Vô luận việc nhỏ, việc lớn, việc quốc gia, việc xã hội, hễ đã làm ngƣời tính việc đời, tất phải biết như thế.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Sơn hạ hữu phong, Cổ. Quân tử dĩ chấn dân dục đức.
象曰: 山下有風, 蠱. 君子以振民育德.
Ở dưới Cấn sơn mà có Tốn phong, thế là gió đụng lấy núi mà gió phải quay vần. Vật ở trong núi bị tán loạn, ấy là tượng quẻ Cổ.
Quân tử xem tượng ấy biết rằng: Thời đại này cần phải có việc mà kể việc đáng làm thời chẳng việc gì lớn hơn việc giáo dục, cổ vũ khí dân, nuôi nấng đức dân, ấy là công việc rất lớn, in như lời sách Đại Học: Minh minh đức ư thiên hạ 明明德於天下.
Chấn dân: cổ vũ khí dân, khiến cho hăng hái, thức tỉnh trí dân khiến cho linh tỉnh, chính là việc trí dục, thể dục ở đời bây giờ.
PHỤ CHÚ: Phép giáo dục ở các nước văn minh đời nay, đại cương có ba điều. Một là, đức dục, hai là, trí dục, ba là, thể dục. Ở đây nói chấn dân là công việc trí dục, thể dục. Dục đức là công việc đức dục. Nhưng ở trong ba điểu ấy thời đức dục là căn bản. Nếu đức dục chẳng hoàn toàn thời dầu có trí dục, thể dục mà chỉ phấn sức ở nơi văn minh vỏ, thế cũng chẳng ra gì. Vì vậy mà Tượng Truyện quẻ Cổ, quy kết ở hai chữ dục đức.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Lục: Cán phụ chi Cổ, hữu tử, khảo vô cựu, lệ, chung cát
初六: 幹父之蠱, 有子, 考无咎, 厲, 終吉.
Sơ Lục tuy ở dưới hết quẻ, nhưng ở về Nội Tốn thời hào Sơ lại là chủ quẻ, theo về gia đình thời tượng là con đầu nghĩa là gia chủ. Ở về quẻ Cổ lại tượng là con thừa nghiệp cha mà phần nhiều việc vì cha mà hoại loạn tất phải nhờ con chỉnh đốn kinh dinh, chuyển loạn vi trị, ấy là cán phụ chi Cổ. (Cán là ví dụ với cây, cây có cán thời ngành lá mới rậm rạp, con cán được việc cho cha, cũng như thể).
Nguyên lai sở dĩ Cổ là tội tại cha, bây giờ may nhờ có con bổ cứu mọi điều tệ, kiến thiết mọi việc mới, thời cha cũng nhờ có con mà khỏi được mọi tiếng xấu.
Tuy nhiên, gặp về thì sau Cổ mà gánh vác lấy việc nặng nề há phải dung dị đâu. Huống gì Sơ Lục thể chất vẫn âm nhu mà ở trên lại không người ủng viện. Theo về hoàn cảnh cũng là đáng nguy nên tất phải dịch lệ răn đe, mới được chung cát (Lệ là có ý nguy mà cũng có ý e sợ).
Xử vào địa vị ấy, gánh công việc ấy, biết lấy làm nguy mà để lòng răn sợ thời kết quả được tốt lành.
Tượng viết: Cán phụ chi Cổ, ý thừa khảo dã.
象曰: 巧父之蠱, 意乘考也.
Hào từ nói rằng: Cán phụ chi Cổ nghĩa là những việc hoại loạn, tuy lỗi tại cha, nhưng tâm lí của cha, cũng trông mong được người con tốt bổ cứu những điều lỗi cho mình, Sơ Lục biết lấy nghĩa vụ làm con mà cán được những việc cổ của cha, tuy việc cán cổ vẫn tay con làm, nhưng cũng vâng đỡ ý chí của cha đó vậy.
PHỤ CHÚ: Thông lệ ở trong Dịch, mỗi một quẻ là một việc, mỗi một hào là một thì giờ ở trong việc ấy, quẻ Cổ này chuyên nói về việc nhà nên thủ tượng bằng con với cha mẹ.
Tuy nhiên, Dịch lí là cốt biến thông, hoặc quốc gia, hoặc xã hội, hễ dụng thời đại nào, người trước đã làm ra tệ hoại mà người sau có lẽ sửa sang, thay đổi những việc Cổ, để gây dựng được nền canh tân, cũng có thể gọi bằng cán phụ chi Cổ. Phụ là chỉ vào những bậc tiên nhân, chẳng phải chỉ câu nệ bằng cha, con không mà thôi.
2. Cửu Nhị: Cán mẫu chi Cổ, bất khả trinh.
初九: 幹姆之蠱, 不可貞.
Cửu Nhị dương cương đắc trung, thượng ứng với Lục Ngũ, Ngũ là âm nhu nên thủ tƣợng bằng mẹ; hào Nhị vì có tài cương trung mà dùm giúp việc cho một người nhu thuận, sủa sang được những việc tệ hại, xoay lại làm thành, tượng là cán mẫu chi Cổ.
Nhưng tòng lai, Ngũ âm chất nhu nhược mà Nhị thời lại dương cương, lấy tính dương cương mà chu hoàn với tính âm nhu, tất nhiên, hai bên thường hay để ngộ.
Vậy nên, thánh nhân phải răn cho rằng: Cán mẫu chi Cổ, há phải câu nệ như cách cán phụ chi Cổ đâu, con đối với cha thời lấy cách cương trực mà làm tránh tử là hay, còn như đối với mẹ, thường tình phụ nhân phần nhiều ưa cách hòa duyệt nhu thuận nên muốn cán mẫu chi Cổ, tất phải êm hòa mát ngọt mà đối với mẹ, có lúc phải biến thông ủy khúc mà cũng phải làm, chứ không nên cố chấp một cách kiên trinh. Đó là một đạo biến hóa ở trong Dịch học.
Tượng viết: Cán mẫu chi Cổ, đắc trung đạo dã.
象曰: 幹姆之蠱, 得中導也.
Ở trong Dịch, thường quý trọng chữ trinh, duy Hào từ này lại nói bất khả trinh, chẳng phải là mâu thuẫn hay sao? Vẫn có thể mâu thuẫn chẳng phải là Dịch lí, mà biến hóa chính là Dịch lí. Vì có biến hóa nên cũng có lúc như hình mâu thuẫn. Nguyên lai, trinh nghĩa là chính, cũng có nghĩa là bền mà bền tất phải dụng cương. Còn đối với mẹ mà hoàn toàn dụng cách cương e có khi đến nỗi mẫu, tử bất tương đắc, thời công việc cán Cổ phải hỏng ngay, nên Tượng Truyện nói rằng: Muốn chỉnh đốn những việc tệ hoại của mẹ mình tất phải cốt được đạo trung, nghĩa là không nên quá cương, vừa hợp với đạo trung mới đúng. Đó là nghĩa chữ bất khả trinh của Hào từ.
Suy rộng nghĩa ấy thời chúng ta xử việc đời, cũng phải tùy thì, tùy địa, tùy nhân mà liệu cách biến thông, ấy là trung đạo.
3. Cửu Tam: Cán phụ chi Cổ, tiểu hữu hối, vô đại cựu.
九三: 幹父之蠱, 小有悔, 無大咎.
Hào Cửu vị Tam là quá cương bất trung, người ấy vẫn có tài, nhƣng chẳng khỏi tính cương táo, nhưng vì Tam ở thể Tốn, Tốn là có tính thuận, tuy cương quá mà chẳng phải là không tính thuận nên làm một người chủ cán sửa sang những việc tệ hoại cho cha mình. Lúc đầu, vì nóng nảy quá kích, tất phải một phần mắc lấy những việc đáng ăn năn, nhưng cuối cùng không tội lỗi gì lớn. Bởi vì Cửu Tam đắc chính lại có tài dương cương, tất nhiên cán nổi được việc Cổ cho cha mà chẳng đến có tội lỗi lớn.
Tượng viết: Cán phụ chi Cổ, chung vô cựu dã.
象曰: 幹父之蠱, 終無咎也.
Nghĩa Tượng Truyện cũng nói như trên Hào từ.
PHỤ CHÚ: Cửu Tam là hạng ngƣời có tính chất quá cương, chắc là một hạng người hay trung ngôn, trực gián 忠言直諫. Sách xưa có câu: Phụ hữu tránh tử, gia chi phúc 父有諍子, 家之福 (Tránh: can cãi). Thấy cha làm điều trái đạo lí mà trực gián cố tranh, khiến cho cha khỏi sụp vào vòng bất nghĩa, chinh là một cách cán phụ chi cổ nên kết quả đƣợc vô cựu.
4. Lục Tứ: Dụ phụ chi Cổ, vãng kiến lẫn. 六四: 裕父之蠱, 往見吝.
Hào âm ở vị âm, tính chất nhu thuận mà lại nhút nhát, không thể hữu vi được. Lấy một cách dui dai, dùng dằng mà gánh việc trì Cổ chỉ là kéo dài mối họa loạn cho cha mà thôi. (Dụ: kéo dài, cũng có nghĩa là thủng thẳng).
Thủng thẳng rù rò ngày càng thêm Cổ, như thế mà kéo dài hoài, chỉ thấy đáng xấu hổ mà thôi.
Tượng viết: Dụ phụ chi Cổ, vãng vị đắc dã.
象曰: 裕父之蠱, 往未得也.
Tài quá nhu như Lục Tứ mà xử vào thời đại trì Cổ, chỉ là dụ phụ chi Cổ mà thôi. Dầu có tấn hành cũng chỉ thất bại vậy (Vãng: tấn hành; vị đắc, tức là thất bại).
PHỤ CHÚ: Hào Tam vì quá cương mà hữu hối, hào Tứ vì quá nhu mà kiến lẫn, nhưng ở về thì Cổ, tất có tài dương cương mới hay hữu vi, dù có tiểu hữu hối, như Cửu Tam chẳng thể vãng, như Lục Tứ kiến lẫn.
Bởi vì quá cương còn có vai gánh vác, quá nhu thời chỉ là một hạng người nằm im mà thôi.
5. Lục Ngũ: Cán phụ chi Cổ, dụng dự. 六五: 幹父之蠱, 用誊.
Lục Ngũ bản chất âm nhu mà ở ngôi chí tôn là một tay chủ cán trọng yếu nhất ở trong thì Cổ, nhưng vì bản thân là âm nhu nên chẳng làm nổi việc khai cơ sáng nghiệp, may nhờ vì có đức trung mà hạ ứng với người có tài dương cương là Cửu Nhị. Có đức trung mà lại tín nhiệm tôi hiền làm một người kế nghiệp thủ thành, thật là xứng đáng, chính là cán phụ chi Cổ mà lừng lẫy tiếng khen ở trong đời.
Dự nghĩa là tiếng khen; dụng dự nghĩa là dụng người tốt mà được tiếng khen. Hào này tượng như Trần Thái Tông, Lê Nhân Tông ở nước ta, thảy dùng được tôi hiền mà có danh dự.
Tượng viết: Cán phụ dụng dự, thừa dĩ đức dã.
象曰: 幹父用誊, 乘以德也.
Lục Ngũ có đức nhu trung, nhờ có Cửu Nhị ở dưới, lấy đức cương trung mà thừa thuận với Ngũ, mới hay cán phụ chi cổ, dụng dự. Đó là kết quả của đức trung vậy.
6. Thượng Cửu: Bất sự vương hầu, cao thượng kì sự.
上九: 不事王侯, 高尚其事.
Theo lệ Kinh Dịch, hào vị đến Ngũ là chí tôn, mà hào Thượng là vô vị, chỉ là một người ở ngoài việc. Thượng Cửu ở về cuối cùng thì Cổ, bao nhiêu công việc cán Cổ, chẳng trách nhiệm gì đến mình.
Tượng là một vị hiển nhân quân tử, cao khiết tự trì, siêu nhân ở ngoài thế tục, mặc dầu vương hầu cao quý mình chẳng thèm xu phụ tới nơi, chỉ là cao thượng lấy việc của mình mà thôi.
Tượng viết: Bất sự vương hầu, chí khả tắc dã. 象曰: 不事王侯, 志可則也.
Thượng Cửu bản thân, đã xử ở ngoài việc đời, thôi thời danh tiết tự trị, chẳng thèm thần sự vương hầu, chí cao thượng được như thế, đáng làm pháp tắc cho người đời vậy.
PHỤ CHÚ: Chúng ta đọc đến quẻ Cổ, lại biết thêm một nghĩa biến hóa ở trong Kinh Dịch. Hào Thượng theo thông lệ vẫn là vô vị, nhưng ở quẻ Càn thời thánh nhân lấy nghĩa bằng cương cực mà bảo rằng: Hữu hối. Đến quẻ Cổ thời chẳng thủ nghĩa bằng cơ cực mà lại lấy vô vị làm hay.
Vô vị nghĩa là không quyền vị, chính như câu nói thầy Mạnh: Ngã vô quan thủ, ngã vô ngôn trách giả, tắc ngô tiến thối, khỉ bất xước xước, nhiên hữu dư dụ tai 我無官守, 我無言責也, 則 吾進退, 豈不綽綽, 然有餘裕哉. Nghĩa là: Ta không chức nhậm làm quan, ta không trách nhậm phải nói, thời đường tấn thối của ta há chẳng tự do tự tại nữa rư? Thiệt đúng với bổn phận những người vô vị, nên nói rằng: Bất sự vương hầu, cao thượng kì sự.
Quân tử ở đời, vẫn ôm một tấm lòng lo gánh vác việc đời, nhưng cũng phải xem ở nơi phận vị mình, nếu phận vị mình đã xử vào cục ngoại mà hãy còn chui lòn, len lỏi vì phú quý mà thất thân thời còn gì giá trị nữa.
Ngày xưa, như ông Trần Hi Di đời Tống, ẩn cư núi Hoa Sơn; cụ Nguyễn Thiếp ở đời Tây Sơn ẩn cư Thành Lục Niên, thảy là đúng như Hào từ Thượng Cửu quẻ Cổ. Hào từ nói rằng: Cao thượng kì sự. Chữ sự rất có ý nghĩa: hữu sự vẫn là sự, mà vô sự cũng là sự. Gặp thì, đúng thế thời đem thân ra cống hiến với đời, trái buổi mất ngôi thời treo gương danh tiết với thiên hạ, quân tử có bao giờ vô sự đâu, nên nói rằng: Cao thượng kì sự.
19. QUẺ ĐỊA TRẠCH LÂM
Khôn trên; Đoái dưới
Quẻ này là quẻ Địa Trạch Lâm
Đoài hạ cũng là Nội Đoài, Khôn thượng cũng là Ngoại Khốn. Khôn vi Địa, Đoài vi Trạch, nên tên quẻ đọc bằng Địa Trạch Lâm.
TỰ QUÁI
Tự quái: Cổ giả sự dã, hữu sự nhi hậu khả đại, cố thụ chi dĩ Lâm. Lâm giả đại dã. 序卦: 蠱者事也, 有事而後可大, 故受之以臨. 臨者大也.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ cổ tiếp lấy quẻ Lâm là vì cớ sao?
Cổ nghĩa là việc, hễ có việc mà sau mới làm đến lớn được. Đã có việc thời lớn. Vậy nên sau quẻ Cổ tiếp lấy quẻ Lâm, Lâm nghĩa là lớn.
Theo về thể quẻ, nguyên đầu là quẻ Khôn vì đem lại hai nét dương thay vào hào Sơ, hào Nhị, thế là dương cương tiệm trưởng mà tới ngày thịnh lớn, nên đặt tên quẻ bằng Lâm. Lại ở trên Đoài trạch có Khôn địa, tượng là bờ đất bức cận với nước, nên cũng gọi bằng Lâm.
Lâm, lại nghĩa là bức gần, chúng ta thường hay nói "lâm dân", "lâm hạ" là thuộc về nghĩa ấy.
SOÁN TỪ
Lâm, nguyên hanh, lị trinh, chí vu bát nguyệt, hữu hung.
臨元亨利貞, 至于八月有凶.
Quẻ Lâm này là quẻ tháng Mười Hai, hai hào dương đã trưởng lần, bức áp bốn âm, từ đó sắp đi, dương càng trưởng, âm càng tiêu là thế đạo đã gần lúc thông thái mà lại theo về tài quẻ thời Cửu Nhị cương trung ứng với Lục Ngũ nhu trung, quân thần đông đúc, xoay đổi cuộc đời, nhân sự cũng có chiều vui vẻ nên thánh nhân mừng cho xã hội đến thì Lâm này, chắc được thông thái lớn lắm.
Tuy nhiên, lẽ trong thiên hạ, có đâu trị mãi mà chẳng loạn, có đâu thịnh mãi mà chẳng suy. Đạo quân tử tuy đương trưởng mà đã chắc đâu đạo tiểu nhân thiệt tiêu hết rư?
Hễ người ta xử vào thì Lâm, chớ nên kiêu xa, phóng tứ, phải lo vun đắp chính đạo cho thiệt vững bền.
Nếu chẳng thế thời e họa loạn chẳng bao lâu tới ngay, ước chừng đến tám tháng nữa, tất có điều hung họa. (Bát nguyệt, có nghĩa là tám tháng, lại có nghĩa học là tháng Tám).
Nguyên nét dương ở quẻ Lâm, bắt đầu sinh từ quẻ Phục là quẻ tháng Mười Một, bắt đầu kể từ quẻ Phục là một tháng mới có một nét dương, đến hai nét dương mà thành quẻ Lâm. Lâm là quẻ tháng Mười Hai là được hai tháng; ba dương sinh ra quẻ Thái, quẻ tháng Giêng là được ba tháng; trung gian trải qua bốn dương là quẻ Đại Tráng, quẻ tháng Hai là được bốn tháng, năm dương là quẻ Quải, quẻ tháng Ba là được năm tháng, sáu dương là quẻ Càn, quẻ tháng Tư là được sáu tháng. Bỗng chốc nhất âm sinh mà làm quẻ Cấu[16], quẻ tháng Năm, dương trưởng chỉ mới sáu tháng mà đã có cơ tiêu. Lại tấn lên quẻ Độn, quẻ tháng Sáu thời Nhị âm đã trưởng lần mà tứ dương đã có thể nguy.
Kể lại từ tháng nhất dương sinh đến nay, vừa được tám tháng. Thế là dương đã rõ ràng thế tiêu, âm đã rõ ràng thế trưởng, chẳng phải hữu hung hay sao?
Xem lí tự nhiên ở trong Kinh Dịch thời cơ họa phúc thịnh suy, chẳng ghê tởm lắm hay sao? thánh nhân đương lúc dương trưởng mà lo sẵn đến lúc dương tiêu, chính giữa lúc âm tiêu mà ngừa trước đến lúc âm trưởng nên có câu: Chí vu bát nguyệt hữu hung.
Lại có một nghĩa: Bát nguyệt là tháng Tám, kể ra cũng thông. Bởi vì nhất âm sinh từ quẻ Cấu[17] là quẻ tháng Năm. Đến Nhị âm sanh là quẻ Độn là quẻ tháng Sáu. Tam âm địch với tam dương là quẻ Bĩ là quẻ tháng Bảy, âm trưởng đến bốn hào mà dương chỉ còn hai hào, âm có thể đánh đổ dương, chính là quẻ Quán là quẻ tháng Tám. Dương tiêu đến đó, âm trưởng đến đó, thế đạo còn gì tốt nữa đâu, nên nói rằng: Đến tháng Tám thời hữu hung nghĩa ấy, cũng thông, nhân vì tháng Tám là tháng quẻ Quán vậy.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Lâm, cương tẩm nhi trưởng, duyệt nhi thuận, cương trung nhi ứng. Đại hanh dĩ chính, thiên chi đạo dã; chí vu bát nguyệt hữu hung, tiêu bất cửu dã.
彖曰: 臨, 剛浸而長, 説而順, 剛中而應. 大亨以正, 天之道也; 至于八月有凶, 消不久也.
Soán viết: Lâm, cương tẩm nhi trưởng, duyệt nhi thuận, cương trung nhi ứng.
Thông lệ Dịch, âm là tiểu, dương là đại, âm tính nhu, dương tính cương.
Quẻ này, hai nét dương lần lần mà tấn lên hoài nên nói rằng: Cương tẩm nhi trưởng. Nội Đoài là có đức tính duyệt, Ngoại Khôn là đức tính thuận. Nhị dương mừng được tấn là duyệt, tứ âm chẳng dám cự là thuận. Cửu Nhị dương cương đắc trung mà ứng với Lục Ngũ, đức quẻ, thể quẻ như thế. Vậy nên nói rằng: nguyên, hanh, lị, trinh (Tẩm: lần lần).
Sách Phù Kinh có câu: Thiên địa chi đạo tẩm, cũng theo nghĩa chữ Tẩm này.
Đạo lí ở trong trời đất, trưởng không bỗng chốc trưởng, tiêu không bỗng chốc tiêu, tất phải từ lúc mảy may mà lần lần tấn đến lúc thực hiện. Đó là nghĩa chữ Tẩm.
Đại hanh dĩ chính, thiên chi đạo dã.
Theo về đức quẻ, tốt như thế nên được nguyên, hanh, lị, trinh, chính là hợp với đạo trời vậy.
Chí vụ bát nguyệt hữu hung, tiêu bất cửu dã.
Quẻ Lâm mà lật trái lại là quẻ Quán. Tuy bây giờ dương trưởng, nhưng chẳng bao lâu thời đến quẻ Quán, phút nữa thời là quẻ Bác, quẻ Khôn là dương tiêu hết rồi.
Thánh nhân muốn cho chúng ta phòng bị trước, chớ thấy dương trưởng mà mừng nên nói rằng: Tiêu bất cửu dã.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Trạch thượng hữu địa, Lâm. Quân tử dĩ giáo tứ vô cùng, dung bảo dân vô cương.
象曰: 澤上有地, 臨. 君子以教思无窮, 容保民无疆.
Quẻ này Khôn trên, Đoài dưới là trên chằm có đất, dưới đất là bờ chằm, bờ chằm áp tận mặt nước thành ra tượng Lâm. Địa lâm với Thủy, tượng như kẻ trên lâm với kẻ dưới.
Quân tử xem tượng ấy đem làm việc lâm dân, việc lâm dân tuy nhiều, nhưng nói tóm lại chỉ cốt giáo với dưỡng, lấy cách giáo hóa mà lâm dân thời lo cho khai dân trí, hưng dân đức, ý tứ dạy không bao giờ cùng. Lấy cách dưỡng dục làm lâm dân thời lo bênh vực những người bần cùng, vun đắp ra nền phú thứ, dung nạp bảo tồn hết thảy loài người không ngần nào là đủ.
PHỤ CHÚ: Chẳng những nói chữ giáo mà thôi, lại nói thêm chữ tứ. Tứ là thuộc về tình thần, giáo chẳng những ở hình thức mà cốt ở tinh thần nên nói rằng giáo tứ, nghĩa là dùng ý tứ sâu xa mà bày đặt ra cách giáo dục, tượng như đức nước thấm ngầm sâu xa. Đó là thủ tượng bằng hạ Đoài, chẳng những nói bảo dân thôi mà còn nói dung bảo là có đức lượng "đại công vô tư", sẽ bao dung cho hết thảy loài người, tượng như lượng đất chở muôn vật. Đó là thủ tượng bằng Thượng Khôn, nên nói: Dung bảo dân vô cương.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Cửu: Hàm lâm, trinh, cát. 初九: 咸臨, 貞吉.
Trong quẻ này duy hai dương lâm bức một âm mà Sơ Cửu bắt đầu vào thì Lâm, dương vừa vùn vụt mà lên, âm vẫn có chiều thối nhượng, nhưng vì số âm còn nhiều hơn nên hai dương phải hiệp lực với nhau mới chiến thắng được âm.
Sơ Cửu, dương cương đắc chính, lại được bạn mình là Cửu Nhị dương cương đắc trung, đồng tâm hiệp lực lên mà áp bức quần âm, ấy là hàm lâm.
Sơ Cửu rập với Cửu Nhị mà lâm tứ âm, vẫn là một việc đáng mừng cho dương loại, nhưng tòng lai: Phân bằng kết đảng thời hay dính vào tư tà nên thánh nhân mừng cho Sơ Cửu, vì Sơ Cửu đắc chính tất chẳng đến nỗi vì tư tà mà mắc tiếng xấu nên nói rằng: Trinh cát.
Hàm: đều, cũng có nghĩa là rập nhau; trinh cát: vừa chính vừa lành.
Bốn chữ ở Hào từ này có ý vui mừng cho quân tử mà cũng ngậm ý răn cho quân tử: Hàm lâm mà trinh mới được cát.
Tượng viết: Hàm lâm trinh cát, chí hành chính dã.
象曰: 咸臨貞吉, 志行正也.
Hào từ nói rằng: Hàm lâm trinh cát là chí ý của hào Sơ chỉ cốt ở làm đạo chính, chẳng bao giờ ỷ mình dương trưởng mà quên đạo chính mình vậy.
2. Cửu Nhị: Hàm lâm cát, vô bất lị. 九二: 咸臨, 吉, 无不利.
Chữ Hàm lâm ở hào này nghĩa cũng giải thích như Sơ Cửu.
Cửu Nhị lấy đức dương cương đắc trung, rập sức với Sơ Cửu mà lâm áp quần âm. Theo về đạo lí vẫn chính đáng, theo về cơ hội vẫn thuận lị, gặp thì vận dương trưởng mà tấn hành việc dương thăng, xem như hiện tại vẫn tốt lành mà tương lai lại chẳng việc gì chẳng thuận lị.
PHỤ CHÚ: Bắt đầu vào thì vận dương trưởng mà âm có thể tiêu lần, nhưng xem Hào từ của thánh nhân: Sơ, Nhị chỉ chung nhau hai chữ hàm lâm. Há phải thánh nhân sợ tốn chữ mà không làm được chữ khác rư? Ở trong ngậm ý tứ rất sâu xa.
Tòng lai, việc trong thiên hạ, tiểu nhân hại quân tử thường dễ mà chóng thành, quân tử ngự tiểu nhân thường khó mà hay bại. Cùng nhiều lúc quân tử chia làm hai đảng, nhân đó mà gây nên họa tiểu nhân hại mình.
Tỉ như đời Đông Hán, Từ Trĩ Trần Phồn với Khoách Thái, Lí Ung, thảy là quân tử, chỉ vì quần hiền không rập nhau nên Thập Thường Thị mới đắc chí mà họa đảng cố gây nên thiệt lớn.
Lại như đời Tống Triết Tôn, Tô Đông Pha với Trình Y Xuyên, thảy là quân tử mà té ra lại chia làm Lạc Đảng, Thục Đảng nên nỗi chúng quân tử phải sụp vào tay Thái Kinh, Thái Xác.
Xem như các gương ấy thời biết được nghĩa chữ "hàm lâm" ở hai hào này, chính là thủ đoạn quân tử ngự tiểu nhân. Ý tứ hay nhất là chữ hàm, tâm đồng mà lực bất đồng là chẳng phải hàm, lực đồng mà tâm bất đồng cũng chẳng phải hàm.
Sơ với Nhị đồng tâm hiệp lực cùng nhau mới là hàm lâm. Vì thế mà hai hào thảy được chữ cát.
Nói tóm lại, hàm thời cát, bất hàm thời hung là lẽ tất nhiên. Thông lệ Kinh Dịch mỗi một hào có khi chỉ về một người, cũng có khi chỉ về một phe, cũng có khi chỉ về một quốc gia, một xã hội, tức như hai hào này nếu nhận làm hai phe rập nhau cũng có thể được. Học Dịch phải biến thông rộng lớn như thế, nếu câu nệ chấp nhất thời còn gì là học Dịch đâu.
Tượng viết: Hàm lâm, cát, vô bất lợi, vị thuận mệnh dã.
象曰: 咸臨吉, 無不利, 未順命也.
Hào từ Cửu Nhị tuy nói rằng cát, vô bất lị, thiệt lấy làm vui mừng, nhưng thánh nhân còn lo cho người ỷ vào mệnh trời mà không lo tận nhân sự. Ý ngài nói rằng: Tất phải hàm lâm mới được cát, vô bất lị là lấy nhân sự để giúp đỡ thiên mệnh, chứ không phải ngồi im mà chờ mệnh trời.
Nghĩa chữ vị ở đây cũng như chữ phi, không học vị là chưa mà học vị là chẳng phải.
Mệnh là mệnh trời là lí số tiêu trưởng; thuận mệnh là chỉ ngồi nghe số trời.
Theo số trời, vẫn đến lúc dương trưởng đáng không phải lo gì tiểu nhân, nhưng thiên số cũng cần phải có nhân sự, có lẽ gì thuận thính mệnh trời mà được rư? Nên Nhị dương phải hàm lâm. Thế là không phải ngồi nghe mệnh trời vậy.
Trên kia đã nói rằng: Tiêu bất cửu là lo sẵn đến ngày dương tiêu. Ở đây lại nói rằng: vị thuận mệnh là bảo chớ ỷ thế bằng dương trưởng. Hai ý đó nên đắp đổi mà xem với nhau.
3. Lục Tam: Cam lâm, vô du lị, kí ưu chi, vô cựu.
六三: 甘臨, 無攸利, 既憂之, 無咎.
Lục Tam âm nhu bất trung chính là một tay tiểu nhân ở thì Lâm. Tam ở trên hết Nội Quái hạ lâm với nhị dương. Tam thấy nhị dương đương trưởng, toan dùng cách ngon ngọt a dua để sập nhị dương.
Nhưng mà nhị dương là quân tử, có lẽ đâu vì Tam ngon ngọt mà bị sụp. Lục Tam dầu cam lâm đến thế nào, cũng chỉ bày tỏ nết xấu để thêm người ta ghét mà thôi, có ích lị gì đâu.
Tuy nhiên, Lục Tam mới bắt đầu vào cửa tiểu nhân, thánh nhân chưa nỡ cự tuyệt nên lại răn rằng: Cách cam lâm của Tam vẫn không ra gì. Nếu Tam biết cải quá thiên thiện, lo bỏ điều xấu mà bỏ một cách thiệt thà, Tam hồi tâm như thế thì quân tử cũng không trách móc gì mà Tam cũng khỏi tội lỗi.
Tượng viết: Cam lâm, vị bất đáng dã, kí ưu chi, cựu bất trưởng dã.
象曰: 甘臨, 位不當也; 既憂之, 咎不長也. Lục Tam cam lâm là vì địa vị Tam bất trung chính, không đáng với vị ở trên người vậy, nhưng đã biết lo mà cải quá thời tội lỗi cũng đến nỗi lớn vậy.
PHỤ CHÚ: Chỉ một chữ cam mà vẽ hết tinh thần của tiểu nhân.
Xưa Lí Lâm Phủ làm tướng đời Đường là một đứa tiểu nhân làm hại vô số quân tử. Người đời có câu nhạo nó rằng: Khẩu mật phúc kiếm 口密腹劍 là miệng nó như mật ngọt mà trong bụng nó có gươm.
Lại như thằng Lô Khỉ hễ nó cười với ai thời người ấy rồi bị nó giết, người ta bảo Lô Khỉ tiếu trung hữu đao 盧起笑中有刀 là nói trong miệng cười Lô Khỉ cổ cái dao, nên chúng ta phòng bị tiểu nhân phải phòng bị ở chốn ngon ngọt.
Tiên triết có câu: Kì ngôn thái cam, kì trung tất khổ 其言太甘, 其中必苦, nghĩa là: Nghe lời nói quá chừng ngon ngọt, tất nhiên ở trong ấy có cái rất đắng.
4. Lục Tứ: Chí lâm, vô cựu. 六四: 至臨, 無咎.
Lục Tứ này cũng âm nhu, cũng tiểu nhân ở thì Lâm, nhưng vì hào Lục ở vị Tứ là đắc chính lại hạ ứng với Sơ Cửu là được người bạn hiền, chính với chính giúp nhau, vì hoàn cảnh mà biến hóa được Tứ, nên Tứ biết lấy một cách thành thực thâm thiết mà lâm với Sơ, như thế thời không tội lỗi gì đến Tứ.
Tượng viết: Chí lâm, vô cựu, vị đáng dã. 象曰: 至臨無啓, 位當也.
Tứ sở dĩ chí lâm vô cựu là vì vị Tứ xử vào vị đắc chính vậy.
5. Lục Ngũ: Trí lâm, đại quân chí nghi, cát. 六五: 知臨, 大君之宜, 吉.
Ngũ là vị chí tôn, lại ở vị dương cương, Lục là âm nhu xử vào vị ấy, vẫn là cảnh khó xử, nhưng vì Ngũ có đức trung lại ở thể Khôn có tính thuận, ở vị cương nhờ có một bậc hiển thần cương trung là Cửu Nhị thượng ứng với mình. Ngũ có đức trí tri nhân, thiện dụng, biết tín nhậm Cửu Nhị, bao nhiêu việc thiên hạ thảy kí thác cho Cửu Nhị, tự mình chỉ lấy đức trí của mình lâm thiên hạ. Như thế thời tai mắt của người, tất là tai mắt mình, thông minh của thiên hạ nhóm góp làm thông minh của mình, thiệt đúng tư cách người nguyên thủ trong một nước. Kết quả chắc được tốt lành. (Đại quân: nguyên thủ; nghi: đúng tư cách).
PHỤ CHÚ: Hào này tốt nhất ở trong quẻ, nhưng sở dĩ được tốt nhất thời vì có đức trí (Trí là khôn), mà đức trí lớn nhất là trí hay biết người.
Sách Trung Dung có câu: Thông minh duệ trí, túc dĩ hữu lâm 聰明睿知足以有臨, nghĩa là: Có đức thông minh khôn sáng mới đủ lâm được người, chính đúng với nghĩa trí lâm ở hào này.
Tượng viết: Đại quân chi nghi, hành trung chi vị dã.
象曰: 大君之宜, 行中之謂也.
Lục Ngũ âm nhu đắc trung, Cửu Nhị dương cương cũng đắc trung, hai bên thảy có đức trung, vậy nên, thanh ứng khí cầu, chí đồng đạo hợp, chỉ cốt phát triển đức trung mà thôi.
Hào từ Lục Ngũ sở dĩ nói rằng: Đại quân chi nghi, cũng chỉ nói hành trung đó vậy.
6. Thượng Lục: Đôn lâm, cát, vô cựu. 上六: 敦臨, 吉, 無咎.
Theo thông lệ ở các quẻ thời hào Thượng thường hay không tốt. Bởi vì vật cực tất biến là lẽ tự nhiên. Duy quẻ Lâm này thủ nghĩa đặc biệt thời lại lấy cực làm tốt, bởi vì Thượng ở cuối cùng quẻ Lâm là Lâm chi chung, lại ở trên hết Ngoại Khôn là thuận chi cực, xử vào thời đại Lâm chính là lúc quân tử đạo trưởng, nhưng cứ lẽ việc trong thiên hạ há phải một phía quân tử mà làm được xong rư? Chỉ mong cho tiểu nhân phục tòng với quân tử là được, Thượng Lục thể Khôn, tính thuận, ở cuối cùng thì Lâm, chân tâm phục tòng với nhị dương, lại ở trên hết bốn âm, chính là anh đầu bầy ở trong tiểu nhân, dắt cả bầy tiểu nhân mà thành tâm phục tòng quân tử, thiệt là trung hậu rất mực mà lâm với đời, ấy là "đôn lâm" (Đôn, cũng như chữ hậu, nghĩa là dày dặn).
Âm nhu lâm dương mà lại hết sức thuận tòng với dương, tượng như đức dày chở được muôn vật nên nói rằng: Đôn lâm, như thế thời cát mà vô cựu.
Tượng viết: Đôn lâm chi cát, chí tại nội dã.
象曰: 敦臨之吉, 志在内也.
Thượng Lục sở dĩ được cát bằng đôn lâm là vì tinh thần ý chí của Thượng chỉ thuận tòng với hai dương ở Nội Quái vậy.
PHỤ CHÚ: Chữ Lâm có hai nghĩa: Một nghĩa là lâm ấp; một nghĩa là lâm tiếp. Ở trong sáu hào theo địa vị mà khác nhau.
Chữ Lâm ở hào Sơ và hào Nhị là nhị dương lâm ấp tứ âm, trông cho quân tử đồng chí.
Chữ Lâm ở Tam, Tứ, Ngũ, Thượng là tứ âm lâm tiếp với nhị dương, lại trông cho tiểu nhân phục tòng với quân tử. Vậy nên, lời hào Sơ, hào Nhị sợ quân tử có chia bề mà phải nói hàm lâm. Đến như: Tam, Tứ, Ngũ, Thượng thảy trông cho tiểu nhân cảm cách, nhưng duy hào Tam cam lâm là một tay gian xảo nên nói vô du lị.
Hào Tứ chí lâm, hào Ngũ trí lâm, thảy là hạng người biết thân quân tử nên được chữ vô cựu, chữ cát.
Đến hào Thượng đôn lâm là hết lòng trung hậu mà lâm tiếp với bậc quân tử; trong một nước, một xã hội nếu được như thế thời hạnh phúc không biết bao. Bởi vì quân tử mà quân tử là sự thường, tiểu nhân mà hóa ra quân tử mới là hạnh phúc cho nhân loại. Vì vậy, Hào từ quẻ Lâm không chữ hung, hối, lẫn.
Thời đại ấy, thế giới ấy, chúng ta có bao giờ được thân kiến chăng?
20. QUẺ PHONG ĐỊA QUÁN
Tốn trên; Khôn dưới
Quẻ này là quẻ Phong Địa Quán.
Khôn hạ cũng là Nội Khôn. Tốn thượng cũng là Ngoại Tốn. Tốn vi Phong, Khôn vi Địa, nên tên quẻ đọc bằng Phong Địa Quán
Chữ Quán có hai âm: Âm ở quẻ thời đọc bằng Quán, âm ở sáu hào thời đọc bằng Quan, nghĩa cũng khác nhau. Quán nghĩa là biểu tỏ cho người thấy, Quan thời nghĩa là dòm xem.
TỰ QUÁI
Tự quái: Lâm giả đại dã, vật đại nhiên hậu khả quan, cố thụ chi dĩ Quán.
序卦: 蠱者大也, 物大然後可觀, 故受之以觀.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Lâm, tiếp lấy quẻ Quán là vì cớ sao?
Quẻ trước là quẻ Lâm, Lâm nghĩa là lớn, vật gì cũng đến lớn, vậy sau mới có thể biểu thị cho người xem được. Vậy nên sau quẻ Lâm, tiếp lấy quẻ Quán.
Theo về tượng quẻ: Gió đi trên đất, vạn vật tất thảy hớp lấy gió. Lại lấy bằng thể quẻ: Hai dương ở trên, bốn âm ở dưới, âm trông nom vào dương, dương biểu thị cho âm, tất thảy thành được Quái. Vậy nên đặt tên quẻ bằng Quán.
SOÁN TỪ
Quan, quán nhi bất tiến, hữu phu ngung nhược. 觀盥而不薦, 有孚顒若.
Quái từ ở đây chuyên chỉ một bậc ở trên người, tượng như Cửu Ngũ ở trong quẻ này.
Đúng vị chí tôn làm một người nguyên thủ, đem thân mình làm biểu nghi cho thiên hạ, cảm thiên hạ bằng tinh thần mà chẳng trau dồi ở ngoài hình thức. Tượng như một người chủ tế chỉ tinh thành trai khiết như lúc bắt đầu tế mới quán thủ, chỉ ngần ấy đủ tỏ với thần minh mà không cần phải rượu cơm bàn soạn. (Quán nghĩa là chủ tế rửa tay, tục hay nói quán tẩy; tiến nghĩa là bày mâm cỗ dâng lên, như tục ta thường nói tiến tửu, tiến soạn, v.v. Chỉ việc quán thủ, nói phần hương là được mà không tiến tửu, tiến soạn là nói thí dụ, nghĩa là cốt cho trong sạch bằng tinh thần mà không cần trau dồi bằng vật chất. Người làm bậc trên được như thế ấy là mình chí thành cảm động được người, tất nhiên người cũng lấy chí thành tín ngưỡng mình).
(Phu: chí thành; ngưng: tín ngưỡng).
PHỤ CHÚ: Câu quán nhi bất tiến, chúng ta học Dịch nên hội ý, chớ nên câu nệ ở mặt chữ, cốt lấy tinh thành thờ thần mà không cần dùng vật chất, chính là một cách cảm thần rất ý nghĩa.
Từ nhân, tiếp vật, vẫn không phải không dùng đến vật chất, nhưng tất phải có tinh thần mà vật chất chỉ là đồ trang sức. Nếu chỉ vật chất mà thôi mà không chút gì tinh thần thời bao nhiêu vật chất rặt là giả dối.
Trên biểu thị cho dưới, dưới tín ngưỡng vào trên mà chỉ là giả dối thời còn gì hay. Nên ở dưới câu quán nhi bất tiến tiếp lấy chữ hữu phu. Đó là chú trọng ở tinh thần vậy.
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Đại quán tại thượng, thuận nhi tốn, trung chính dĩ quán thiên hạ. Quan, quán nhi bất tiến, hữu phu ngung nhược, hạ quan nhi hóa dã. Quan thiên chi thần đạo, nhi tứ thì bất thắc, thánh nhân dĩ thần đạo thiết giáo, nhi thiên hạ phục hĩ.
彖曰: 大觀在上, 順而巽, 中正以觀天下. 觀盥而不薦, 有孚釋若, 下觀而化也. 觀天之神道, 而四時不忒, 聖人以神道設教而天下服矣.
Soán viết: Đại quán tại thượng, thuận nhi tốn, trung chính dĩ quán thiên hạ.
Theo như thể quẻ, hào Ngũ ở ngôi tôn, có đức dương cương, trung chính, để cho thiên hạ trông ngóng vào.
Lại theo thể quẻ: Hạ Khôn là Khôn có tính thuận, Thượng Tốn là Tốn có tính nhu hòa. Cửu Ngũ kiêm cả đức trung chính tốn thuận, dụng đức ấy mà biểu thị cho thiên hạ, ấy là nghĩa tên quẻ Quán. Quan, quán nhi bất tiến, hữu phu, ngung nhược, hạ quan nhi hóa dã. Theo như Soán từ thời chi dùng một cách chí thành nghiêm kính, khiến cho kẻ dưới dòm mình mà cảm hóa vậy.
PHỤ CHÚ: Ý nghĩa của Soán từ ở đây tượng như câu: Thần võ nhi bất sát, nghĩa là: dùng uy võ bằng một cách thần diệu mà không cần phải giết người.
Tòng lai, việc võ tất có giết người, võ mà không giết người mới là thần võ. Tế tất có tiến, tế không dùng đồ tiến, mới là ý nghĩa thờ thần rất hay. Kinh Phật có câu: "Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất đắc kiến Như Lai”. Nghĩa là: “Phật lí chỉ ở bản tâm, vô thanh vô sắc, nếu ai lấy thanh âm mà cầu ta ở thanh âm, lấy hình sắc mà cầu ta ở hình sắc, người ấy rặt là làm đạo tà, không được thấy đức Phật Như Lai".
Câu Kinh ấy ý tứ cũng như lời Soán đây. Lấy mâm cỗ mà cầu thần có khác gì lấy thanh sắc mà cầu Phật.
Quan thiên chi thần đạo, nhi tứ thì bất thắc, Thánh nhân dĩ thần đạo thiết giáo, nhi thiên hạ phục hĩ.
Nói đạo Quán cho cực rộng lớn thời phải xem ở đạo trời. Đạo trời rất thần diệu, không nghe nói phô, không thấy làm lụng mà tự nhiên tứ thì vận hành không bao giờ sai suyển. Thánh nhân bắt chước thần đạo cho thiên đó, bày đặt ra những việc giáo dục mà thiên hạ đâu đâu cũng phục theo ngay.
PHỤ CHÚ: Chữ Thần đây không phải nghĩa là quỷ thần, chỉ nghĩa là thần diệu, cũng như nghĩa chữ thần ở câu: Tri kỉ kì thần hồ.
Thánh nhân có đạo thần diệu, suy ra làm giáo hóa, chẳng những thân có giáo, ngôn có giáo mà chỉ tâm lí thánh nhân khiến cho người cảm cách ở chỗ vô hình, vô thanh. Thế là thần đạo thiết giáo. Đời bây giờ bốn chữ "thần đạo thiết giáo" thường bị thầy bói thầy cúng, với những nhà mê tín ăn cắp để phỉnh người, thiệt oan uổng cho thánh nhân quá.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Phong hành địa thượng, Quán. Tiên vương dĩ tỉnh phương, quan dân thiết giáo.
象曰: 風行地上, 觀. 先王以省方觀民設教.
Gió đi trên mặt đất, cổ động khắp mọi loài là tượng quẻ Quán. Tiên vương bắt chước tượng ấy mà tuần tỉnh bốn phương, xem xét tục dân, đặt ra làm chính giáo. Tỉ như: Xứ nào đua mạt nghiệp thời dạy bằng nông tang; xứ nào có dâm phong thời dạy bằng lễ nghĩa; dân khiếp nhược thời dạy bằng thượng võ; dân hiếu dũng thời dạy bằng thượng văn. Đó là cách Quán của Tiên vương vậy.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
1. Sơ Lục: Đồng quan, tiếu nhân, vô cựu, quân tử lẫn.
初六: 童觀, 小人無咎, 君子吝.
Nghĩa ở quẻ thời Quán là biểu thị cho con người, chuyên lấy Cửu Ngũ làm chủ. Nghĩa ở hào thời Quan là quan chiêm, chúng thảy dòm vào Cửu Ngũ. Sơ Lục vẫn là bản chất âm nhu, lại ở vị dưới hết, ngó lên Cửu Ngũ vì cách nhau quá xa mà nhãn quang hào Sơ lại không thấy được xa, cách quan của Sơ, tượng như bé con xem dòm, tiểu nhân mà như thế thời cũng chằng bõ trách gì. Nếu quân tử mà như thế thời đáng xấu hổ lắm.
Tượng viết: Sơ lục đồng quan, tiểu nhân đạo dã.
象曰: 初六童觀, 小人道也.
Sơ Lục ở tượng đồng quan là đạo của tiểu nhân vậy. Đồng quan nghĩa là xem xét lù mù, in như đồ trẻ con).
Chữ Đạo này như ta thường nói tư cách.
2. Lục Nhị: Khuy quan, lị nữ trinh. 六二: 窥觀, 利女貞.
Lục Nhị âm nhu, ở quẻ trong mà xem lên quẻ ngoài, tuy vẫn cũng có xem, nhưng mà xem bằng một cách rình lén tò mò, chỉ tỏ ra thái độ âm ám nhu nhược, không thể nào soi thấu được đạo lí dương cương, trung chính của hào Ngũ, tượng như con gái đứng trong cửa mà dòm lén khách ở ngoài, ấy là Khuy quan.
Cách quan mà như thế chỉ thích vào nết trinh của con gái mà thôi (Khuy: dòm lén).
Hào từ nói rằng: Lị nữ trinh là có ý chê Lục Nhị quan chiêm không được một cách đường hoàng chính đại, không hợp với tư cách đại trương phu. Duy nữ tử trinh mà như thế thời cũng chớ chớ.
Tượng viết: Khuy quan nữ trinh, diệc khả xú dã.
象曰: 窥觀女貞, 亦可醜也.
Nhị muốn quan Ngũ, nhưng vì âm nhu khiếp nhược, chỉ làm bằng cách khuy quan nữ trinh mà thôi. Nếu trượng phu mà như thế, thiệt cũng đáng xấu hổ vậy (Xú như nghĩa chữ tu: xấu hổ).
PHỤ CHÚ: Sơ Lục: Lục Nhị ở vào quẻ Quán, thảy có nghĩa tấn quan Cửu Ngũ, cớ sao Sơ mắc chữ lẫn, Nhị mắc chữ xú? Bởi vì Cửu Ngũ là dương cương quân tử, Sơ, Nhị là âm nhu tiểu nhân, nên thái độ hành vi của quân tử không bao giờ mắt tiểu nhân dòm thấu được.
Sơ thời như đứa bé con dòm đùa, Nhị thời như gái trinh dòm lén. Quan mà quan như thế, lẫn với xú là đáng rồi.
3. Lục Tam: Quan ngã sinh, tiến thối. 六三: 觀我生, 進退.
Lục cư Tam là ở vị bất chính, lại là vị bán thượng lạc hạ, may ra thời có thể được, lỡ rủi thời e phải lui; nhưng ở về thời đại quẻ Quán nên thánh nhân vẽ cho rằng: Đường tiến thối của Tam không cần phải xem ở ai, chỉ cốt xem giữa bản thân mình, nhắm cách hành vi của đời mình, mình lượng tài sức của mình đủ ứng phó với hoàn cảnh thời mình tiến lên mà theo đòi với Lục Tứ. Nếu lượng tài sức mình không ứng phó được nổi hoàn cảnh thời nên an phận, may mà khỏi trụt lui như Lục Nhị.
Tiến rư! Thối rư! Chỉ hỏi ở giữa bản thân Tam (Chữ sinh: thân mình, hoặc đời mình, như ta thường nói bình sinh, nhất sinh là nghĩa ấy).
Tượng viết: Quan ngã sinh tiến thối, vị thất đạo dã.
象曰: 觀我生, 進退, 未失道也.
Hào này tuy không được như bậc thánh nhân, đại hiền, nhưng biết lường xem sức mà tiến, thối, Thế thời, quyền tiến thối chỉ tại kỷ mà bất tại nhân, chưa đến nỗi thất đạo vậy (Thất đạo: sai đường lối).
4. Lục Tứ: Quan quốc chi quang, lị dụng tân vu vương.
六四: 觀國之光, 利用賓于王.
Cửu Ngũ là chủ cho tuyền Quái mà bốn hào dưới thảy quan vào Ngũ: Quan có được gần, mới được sáng suốt mà thân thiết. Lục Tứ âm nhu đắc chính kể cạnh Cửu Ngũ, quan Ngũ được rất thân thiết, tượng như vị hiển thần gặp được thánh nhân, thấy rõ ràng vẻ vang của đời trị nên nói rằng: Quan quốc chi quang, nghĩa là xem được ánh sáng của nước vậy. Quốc chi quang vẫn chỉ vào Ngũ, nhưng không nói bản thân Ngũ mà lại nói chữ quốc, tức có ý nghĩa hay lắm. Bởi vì Ngũ là quốc trưởng, nhất ngôn, nhất động, tất thảy ảnh hưởng đến một nước. Trong nước mà có ảnh hưởng vẻ vang rực rỡ, tuy là văn minh cả một nước mà thực là nhờ có văn minh của vị quốc trưởng mà nảy nở ra, nên nói rằng: Quan quốc chi quang. Quan quốc tức là quan Ngũ đó vậy.
Lục Tứ đã quan Ngũ được thân thiết như thế thời chắc được quốc vương tín nhậm, được hưởng đặc lệ thù vinh làm một vị quý khách ở cương triều.
Tượng viết: Quan quốc chi quang, thượng tân dã.
象曰: 觀國之光, 尚賓也.
Hào từ là nói một người có bạo phụ, có tài đức, há phải độc thiện kì thân mà thôi đâu, vẫn muốn đắc thì hành đạo, đem tài đức mình mà giúp đỡ cho đời, đã gặp được quốc quân như Cửu Ngũ thời chí Tứ vẫn ưng hiến thân ở vương triều, để phát triển tài đức của mình, nên Tượng từ nói rằng: Thượng tấn (Thượng: chí hướng ưng muốn).
5. Cửu Ngũ: Quan ngã sinh, quân tử vô cựu.
九五: 觀我生, 君子無咎.
Cửu Ngũ ở về địa vị quốc trưởng mà lại có đức dương cương, trung chính, bốn âm ở dưới, thảy trông ngóng vào minh, người đương quan vào Ngũ, Ngũ càng phải tự quan ở bản thân là quan ngã sinh mà cách hành động ở bản thân, xuất hiện thì lịnh, hành chính, lập giáo, thảy hợp với đạo quân tử. Như thế thời vô cựu.
PHỤ CHÚ: Nghĩa Hào từ này lại có một nghĩa: Bốn chữ quân tử vô cựu đọc làm một câu. Vì ở thời đại quẻ Quán, bốn âm đương trưởng, hai dương lần tiêu, chính là thì tiểu nhân đắc chí mà nguy hiểm cho quân tử lắm. Nên Hào từ nói rằng: Những người quân tử ở đời này tất phải quan ngã sinh, có đức dương cương trung chính như Cửu Ngũ, quân tử có như thế mới khỏi tội lỗi.
Thầy Bình Am thích nghĩa Kinh Dịch theo nghĩa: Tri thì thức thế, học Dịch chi đại phương 知时 識势學易之大方 thời theo nghĩa ấy cũng đúng.
Tượng viết: Quan ngã sinh, quan dân dã.
象曰: 觀我生, 觀民也.
Lời Tượng Truyện lại phát minh thêm nghĩa Hào từ nói rằng: Hào từ nói quan ngã sinh, há phải bảo chỉ quan ở giữa mình mà thôi đâu. Bởi vì Cửu Ngũ là đứng vào địa vị nguyên thủ của một nước, dân trong một nước, đức dân tối hay sáng, tục dân tốt hay xấu quan hệ ở bản thân Ngũ. Ngũ tốt thời dân tốt, Ngũ xấu thờí dân xấu, nên Ngũ muốn xem tốt xấu ở bản thân, tất phải xem gương tốt xấu ở nơi dân.
Sách Trung Dung có câu: Bản chư thân, trưng chư dân 本諸身, 徵諸民, nghĩa là: Gốc ở giữa bản thân mà chứng nghiệm ở nơi nhân dân (Trưng: nghĩa là chứng).
Kinh Thư có câu: Đang ư dân giám 當於民監, nghĩa là: Muốn biết mình tốt hay xấu nên soi gương ở nhân dân. Đó là nghĩa chữ quan dân.
6. Thượng Cửu: Quan kì sinh, quân tử, vô cựu.
上九: 觀其生, 君子無咎.
Hào từ Thượng Cửu cũng tượng như Cửu Ngũ, khác nhau chỉ chữ kì với chữ ngã. Vì hào Ngũ đối với Tứ âm mà nói thời Ngũ là ngã, còn Thượng Cửu thời chỉ nói ở bản thân Thượng Cửu, nên nói chữ kì, kì là chỉ Thượng Cửu.
Xem ở đạo đức hạnh nghĩa của mình mà đúng với quân tử, thế thời vô cựu.
Thượng Cửu có đức dương cương, ở vào vị trên hết quẻ, nên Hào từ có chữ quân tử, có ý nói rằng: Nếu tiểu nhân thời không đang được.
Tượng viết: Quan kì sinh, chí vị bình dã.
象曰: 觀其生, 志未平也.
Trong Quẻ này, chỉ hai hào dương ở ngôi cao để cho chúng nhân trông xem vào, hào Thượng Cửu và hào Ngũ, nên Tượng Truyện nói rằng: Quan kì sinh làm phải để ý xem ở bản thân lo cho được nhân cách hoàn toàn để cho đúng tư cách được người ta xem, chí ý mình không lẽ thản nhiên vô sự được (Bình: im lặng, không lo gì).
PHỤ CHÚ: Nguyên nghĩa quẻ là bốn âm đuổi hai dương, tượng là người tiểu nhân hại quân tử, nhưng đến Hào từ thời chỉ thủ nghĩa bằng bốn âm xem hai dương, gần hai dương thời được tốt, nên Hào từ Tam, Tứ có chữ tân, chữ lị; xa hai dương thời mắc xấu nên Hào từ Sơ, Nhị có chữ lẫn, chữ xú. Đó cũng là ý phù dương, ức âm, phù quân tử ức tiểu nhân mà cũng là lệ biến hóa ở trong Dịch.
Nhận xét
Đăng nhận xét